Nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa
Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng KHCN&ĐMST trong sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa được các địa phương quan tâm đẩy mạnh. Thống kê cho thấy, cả nước đã có 32/63 tỉnh, thành phố lập quỹ phát triển khoa học công nghệ, góp phần hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Đã có 60/63 địa phương ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021- 2030 (Chương trình 1322).
Ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn sản xuất, nâng cao năng suất, mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp KHCN Việt Nam Hoàng Đức Thảo khẳng định, việc đầu tư phát triển khoa học công nghệ là cốt lõi trong hoạt động của doanh nghiệp. Cơ chế chính sách ưu tiên phát triển, bảo hộ thị trường hàng hóa sản xuất trong nước, đặc biệt là bảo hộ công nghệ, sản phẩm khoa học công nghệ Việt Nam sẽ là động lực thúc đẩy phát triển đổi mới sáng tạo, hướng đến làm chủ công nghệ với kỳ vọng làm chủ thị trường trong nước và quốc tế.
Tính đến nay, cả nước có hơn 800 doanh nghiệp được công nhận là doanh nghiệp KHCN trên tổng số 3.000 doanh nghiệp đủ điều kiện được công nhận. Đa số các doanh nghiệp KHCN đang sản xuất tốt, tạo ra công ăn việc làm và đóng góp cho xã hội, trong đó có nhiều doanh nghiệp nằm trong top 500 doanh nghiệp tăng trưởng hàng đầu của Việt Nam.
Tại cuộc họp chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KHCN do bộ KH&CN tổ chức, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp KHCN Việt Nam thông tin, thực tế doanh nghiệp KHCN hiện nay chưa được hưởng đầy đủ ưu đãi theo quy định. Ví dụ, doanh nghiệp cần ưu đãi về đất đai nhưng hiện nay quỹ đất trong khu công nghiệp, khu sản xuất còn hạn chế nên quy định miễn tiền thuê đất khó áp dụng được. Hay như để nhận ưu đãi về thuế cũng khá khó khăn khi doanh nghiệp phải bảo đảm mức tăng trưởng và doanh thu từ KHCN.
Về ưu đãi tín dụng, doanh nghiệp KHCN có tài sản trí tuệ nhưng không thể đem tài sản trí tuệ ra thế chấp vay vốn. Đặc biệt là vấn đề thuế thu nhập cá nhân chưa công bằng, chưa khuyến khích được động lực sáng tạo. Bởi những nhà khoa học tự bỏ tiền ra, chịu rủi ro để nghiên cứu, thử nghiệm rồi thương mại sản phẩm KHCN cũng đóng thuế bằng người làm nghiên cứu dự án khoa học từ vốn nhà nước, được hưởng lương từ Nhà nước.
Do đó, ông Hoàng Đức Thảo đề xuất cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp KHCN hưởng đầy đủ các ưu đãi. Bộ KHCN có ý kiến với Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế để cùng phối hợp có văn bản trình Quốc hội, Chính phủ nghiên cứu cơ chế đặc thù để mở rộng phạm vi áp dụng thu nhập chịu thuế từ bản quyền quy định tại điều 16 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2014, theo đó đưa thu nhập của tác giả quyền sở hữu trí tuệ được áp dụng biểu thuế toàn phần với mức thuế suất là 5%.
Đánh giá cao vai trò của ứng dụng khoa học công nghệ với doanh nghiệp, Phó Viện trưởng Viện Tin học doanh nghiệp (VCCI) Nguyễn Trung Thực nhấn mạnh, trên thế giới, chuyển đổi số trong ngành sản xuất đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Việc áp dụng và kết hợp các công nghệ tiên tiến mang lại lợi ích rõ rệt cho doanh nghiệp trên nhiều phương diện, thay đổi về tuy duy nhân sự, lao động và giảm chi phí, tối ưu hóa nguồn lực. Chuyển đổi số không chỉ về mặt công nghệ, mà còn là chuyển đổi cả cách quản lý, phương thức tiếp cận, xúc tiến, quảng bá…
Bên cạnh những kết quả khả quan, vẫn còn không ít doanh nghiệp gặp khó khi thực hiện các dự án đầu tư phát triển
Nhờ sự vào cuộc đồng bộ, việc phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam đã từng bước phát triển, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ được ứng dụng nhanh hơn, hiệu quả hơn. Năm 2023, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII (Global Innovation Index) của Việt Nam được xếp thứ 46/132 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2022. Bên cạnh những kết quả khả quan, vẫn còn không ít doanh nghiệp gặp khó khi thực hiện các dự án đầu tư phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ; khó khăn trong việc đưa các sản phẩm ra thị trường.
Khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam với 170 doanh nghiệp hội viên cho thấy, có 11 doanh nghiệp cung cấp số liệu được ưu đãi với tổng số tiền vào khoảng 180 tỷ đồng. Còn lại đa phần là các doanh nghiệp vẫn chưa đủ điều kiện được ưu đãi và chưa thực hiện thủ tục. Bên cạnh đó, kết quả thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ ra thị trường của nhiều đơn vị chưa tương xứng với đầu tư và kết quả nghiên cứu. Việc kết nối, chia sẻ hợp tác, chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến không đạt hiệu quả như mục tiêu và nhu cầu phát triển. Không ít doanh nghiệp chưa đặt trọng tâm đổi mới sáng tạo khoa học công nghệ, để làm nền tảng cốt lõi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững…
Trước thực tế trên, Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam kiến nghị cần sớm ban hành nghị định hướng dẫn Luật Đấu thầu, theo đó thực thi các quy định về ưu đãi hoạt động đổi mới sáng tạo. Các tổ chức trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cần tăng cường phối hợp với các Sở địa phương tổ chức tập huấn, hướng dẫn, triển khai thực hiện Nghị định 13, đảm bảo các doanh nghiệp khoa học công nghệ đều được hưởng lợi ích từ Nghị định này.
Các cơ quan rà soát lại toàn bộ các cơ chế chính sách nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ hiện hành, trên cơ sở đó đề nghị bổ sung điều chỉnh cơ chế theo hướng xã hội hóa – tạo thị trường cạnh tranh, không phân biệt thành phần, đối tượng…
“Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ có cơ chế ưu tiên rút ngắn thời gian cấp bằng sở hữu trí tuệ, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất thương mại hóa sản phẩm ra thị trường theo hướng quy định chủ sở hữu và tác giả phải cam kết chịu trách nhiệm bồi thường thích đáng nếu có tranh chấp,” đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam nhấn mạnh.
Liên quan đến định hướng thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ, ông Trần Xuân Đích, Phó Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ cho rằng cần xây dựng đề án thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa, đưa nhanh kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được tạo ra từ ngân sách Nhà nước vào sản xuất, kinh doanh. Trong đó, chú trọng chính sách chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học và công nghệ, khuyến khích hợp tác công – tư và đầu tư tư nhân trong các dự án thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ.
Giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng khoa học - công nghệ
Để góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết Đại hội XIII và Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, qua đó thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tính cấp thiết phải xây dựng và hoàn thiện thể chế thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ. Các cấp ủy đảng, chính quyền cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về thực hiện chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, trước hết là việc tạo lập môi trường thể chế thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong xây dựng cơ chế quản lý, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; đồng thời phát huy các tiềm năng để đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực quản lý, thúc đẩy phát triển bền vững...
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm khoa học và công nghệ cuối cùng theo kết quả đầu ra. Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại; hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao, mua thiết kế, thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài thuộc các lĩnh vực ưu tiên; hỗ trợ doanh nghiệp mua công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước...
Thứ ba, đổi mới cơ chế hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ, đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập về nhân lực, kinh phí hoạt động dựa trên kết quả và hiệu quả hoạt động. Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực gắn với yêu cầu vận dụng trong thực tiễn phát triển sản xuất, kinh doanh và nhu cầu thị trường. Tăng cường thực hiện cơ chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Giao quyền sở hữu các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đồng thời có cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác giả. Tạo điều kiện để các tổ chức khoa học và công nghệ được vay vốn từ các quỹ hoặc các tổ chức tín dụng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thể chế hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thông qua thực thi các Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… Xây dựng các mô hình hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo mối liên hệ theo chuỗi cung ứng. Tăng cường hiệu quả các quy định ưu đãi đối với đối tượng là doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, như mức ưu đãi đối với kết quả nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ mới và các sản phẩm, dịch vụ khoa học và công nghệ mới. Tập trung cải thiện các thể chế liên quan nhằm tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp xuất khẩu có năng suất cao hơn với các nhà cung ứng trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước vào các dự án nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, từ các doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, các nguồn lực xã hội, đa dạng các kênh đầu tư, tăng tính liên kết hệ thống để thúc đẩy sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ. Ngược lại, khi thị trường khoa học và công nghệ phát triển sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp dễ dàng đầu tư phát triển khoa học và công nghệ để mở rộng, nâng cao chất lượng sản xuất, kinh doanh. Điều này cần có sự hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa để hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ. Phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật khoa học và công nghệ, môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ.