Theo Trung tâm Nước sạch nông thôn, hiện nay toàn tỉnh Tuyên Quang có 180 công trình cấp nước tập trung, trong đó có 135 công trình hoạt động ổn định, phục vụ cho hơn 90.000 người dân nông thôn. Tuy nhiên, vẫn còn hơn 30.000 người dân tại các xã vùng cao, vùng sâu, vùng thường xuyên khô hạn đang phải phụ thuộc vào các nguồn nước nhỏ lẻ như suối, khe, giếng đào, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm.
Đặc biệt trong mùa khô vừa qua, nhiều khu vực tại các huyện Sơn Dương, Chiêm Hóa, Lâm Bình đã ghi nhận tình trạng khô hạn cục bộ kéo dài, ảnh hưởng đến khả năng cấp nước sinh hoạt. Tại xã Hồng Quang (Lâm Bình), nhiều hộ dân phải dùng chung nước từ một giếng đào nhỏ, lưu lượng rất thấp.
Mặc dù nhiều công trình cấp nước tập trung đã được đầu tư nhưng hiệu quả sử dụng thấp do người dân vẫn quen dùng nước giếng, suối và các nguồn nhỏ lẻ không kiểm định. Vụ cá chết hàng loạt sau đập bùn thải quặng chì, kẽm ở huyện Chiêm Hóa từng gây chấn động dư luận, xét nghiệm 10 mẫu nước cho kết quả cả 10 mẫu đều không đạt quy chuẩn quốc gia QCVN 01-1:2018/BYT về chất lượng nước sinh hoạt, với các thông số vi sinh, hóa lý đều vượt mức cho phép, đặt ra nguy cơ cao cho sức khỏe cộng đồng.
Nhiều công trình nước sạch nông thôn xuống cấp, thất thoát nước lớn do quản lý yếu, kinh phí thấp và ý thức của người dân hạn chế. Có công trình cấp nước tập trung nhưng số hộ sử dụng ít vì người dân tự lắp ống dẫn nước riêng hay sử dụng nguồn nước tự nhiên miễn phí để tránh trả phí. Theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường, tuy có đến 95,7 % hộ nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh, nhưng chỉ 15 % lấy từ các công trình cấp nước tập trung, phần lớn còn lại vẫn phụ thuộc vào giếng khoan, hệ thống nhỏ lẻ chưa kiểm định.
Việc ban hành quy chuẩn về nước sạch giúp tỉnh hướng tới mục tiêu nước sạch – an toàn – bền vững cho mọi hộ dân. Ảnh: Đào Thanh
Trước thực trạng nguồn nước bị ô nhiễm, công trình xuống cấp, hiệu quả khai thác thấp và thái độ thờ ơ về kiểm định, việc ban hành một quy chuẩn kỹ thuật địa phương mang tính bắt buộc, rõ ràng là rất cần thiết để kiểm soát, quản lý và nâng cao chất lượng nước sinh hoạt, UBND tỉnh Tuyên Quang đã ban hành Quyết định số 24/2024/QĐ-UBND về Quy chuẩn kỹ thuật địa phương QCĐP 01:2024/TQ về chất lượng nước sạch dùng cho mục đích sinh hoạt trên địa bàn tỉnh.
Quy chuẩn được xây dựng dựa trên nền tảng quy định giao quyền cho địa phương trong QCVN 01:2018/BYT, do Sở Y tế tỉnh đề xuất và UBND tỉnh ban hành. Quy chuẩn điều chỉnh mức giới hạn đối với các thông số hóa lý, vi sinh trong nước sạch sinh hoạt, nhằm kiểm soát chất lượng nước ở phạm vi cấp tỉnh, xử lý các đặc thù địa phương.
QCĐP 01:2024/TQ quy định giới hạn chất lượng đối với nước sạch dùng cho mục đích sinh hoạt; không áp dụng cho nước uống trực tiếp tại vòi, nước đóng bình/chai hay nước từ hệ thống lọc cá nhân. Quy định yêu cầu kiểm tra, lấy mẫu đột xuất hoặc định kỳ, xử lý nghiêm vi phạm để đảm bảo chất lượng nước theo quy chuẩn địa phương. Các đơn vị cung cấp, quản lý nước phải tuân thủ, chịu trách nhiệm về chất lượng đầu ra của nước sinh hoạt.
Việc ban hành quy chuẩn này có bốn lý do cấp bách. Thứ nhất, bảo vệ sức khỏe người dân: nước không đạt chuẩn dẫn đến nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm, tiêu hóa, viêm nhiễm, đặc biệt ở vùng nông thôn miền núi. Thứ hai, quản lý các công trình cấp nước: công trình nước tập trung cần chuẩn mực kỹ thuật rõ ràng và chế tài nếu vi phạm để hạn chế thất thoát, nâng cao hiệu quả đầu tư. Thứ ba, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường: nguồn nước mặt và suối dễ bị ô nhiễm, khô hạn, việc kiểm soát chất lượng nước sinh hoạt cứng rắn là giải pháp cấp thiết. Thứ tư, yêu cầu địa phương hóa chính sách: mỗi tỉnh có đặc điểm nguồn nước, điều kiện khác nhau nên cần quy chuẩn “có thể thực thi được” ở cấp tỉnh, không chỉ phụ thuộc vào tiêu chuẩn quốc gia chung.
Quy chuẩn kỹ thuật địa phương QCĐP 01:2024/TQ là hành lang pháp lý để từng đơn vị, địa phương phải kiểm soát chất lượng nước theo chuẩn cụ thể, minh bạch trách nhiệm và gắn với chế tài thực thi. Khi được triển khai nghiêm túc, QCĐP sẽ mang lại nhiều tác động tích cực. Thứ nhất, nâng cao chất lượng nước sinh hoạt: quy chuẩn là chuẩn mực bắt buộc để các đơn vị cấp nước tuân theo, giúp giảm nguy cơ ô nhiễm, cải thiện an toàn nước sinh hoạt. Thứ hai, tăng trách nhiệm quản lý: các đơn vị cung cấp nước phải có kết quả kiểm tra, chịu trách nhiệm khi vi phạm. Thứ ba, hỗ trợ công tác giám sát và xử lý vi phạm: cơ quan quản lý dễ dàng xử lý khi có mẫu vượt chuẩn nhờ căn cứ vào QCĐP địa phương. Thứ tư, đồng bộ phát triển nông thôn mới: nước sạch là tiêu chí quan trọng trong xây dựng nông thôn mới, QCĐP sẽ hỗ trợ tỉnh Tuyên Quang thực hiện tiêu chí này bền vững.
Tuy nhiên, việc triển khai quy chuẩn địa phương cũng đối mặt với không ít thách thức. Nguồn lực kiểm tra, giám sát hạn chế, chi phí lấy mẫu, phân tích mẫu đòi hỏi trang thiết bị và nhân lực chuyên môn cao. Nhiều hệ thống nước sạch nhỏ lẻ không có kinh phí duy tu, thường xuyên thất thoát. Ý thức và thói quen người dân chưa cao, việc trả phí nước hay kiểm tra chất lượng thường xuyên là gánh nặng với hộ nghèo.
Ở vùng sâu, núi cao, chi phí dẫn nước, xử lý lớn hơn, nên việc áp dụng quy chuẩn phải linh hoạt để không gây cản trở cung cấp nước. Để QCĐP phát huy hiệu quả, tỉnh cần xây dựng mạng lưới quan trắc, phòng xét nghiệm địa phương để giảm thời gian, chi phí kiểm tra; đào tạo, nâng cao năng lực cho các đơn vị cấp nước và quản lý; hỗ trợ tài chính, cơ chế ưu tiên cho vùng khó; tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích của nước đạt chuẩn và rủi ro khi sử dụng nước chưa kiểm định; công khai minh bạch xử lý vi phạm để tạo răn đe; đồng thời liên kết vùng và chia sẻ dữ liệu giữa các tỉnh, cơ quan ngành nước để so sánh chất lượng, hỗ trợ kỹ thuật.
Quy chuẩn kỹ thuật địa phương QCĐP 01:2024/TQ là bước đi cần thiết, hợp thời để chặn đứng tình trạng nguồn nước sinh hoạt ở Tuyên Quang bị ô nhiễm, công trình cấp nước hoạt động kém hiệu quả và tâm lý “dùng nước miễn phí, không kiểm định” của người dân. Khi được triển khai đồng bộ cùng các giải pháp hỗ trợ, QCĐP có thể trở thành công cụ quản lý hữu hiệu giúp tỉnh hướng tới mục tiêu nước sạch – an toàn – bền vững cho mọi hộ dân.