Tham dự hội nghị có đồng chí Nguyễn Thị Khánh Vân – Phó Trưởng phòng Quản lý công nghệ, Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia, Bộ KH&CN; đồng chí Phạm Hồng Thái – Phó Giám đốc Sở KH&CN; đồng chí Nguyễn Thanh Tùng – Phó Chủ tịch UBND xã Kỳ Thượng cùng đại diện lãnh đạo các sở, ngành liên quan và đông đảo bà con nông dân.
Ba kích (Morinda officinalis How) là cây dược liệu đặc hữu có giá trị kinh tế và y học cao, được trồng nhiều năm ở Quảng Ninh. Tuy nhiên, sản xuất thời gian gần đây gặp nhiều khó khăn do bệnh vàng lá, thối rễ và tuyến trùng gây hại, khiến diện tích giảm mạnh, từ hơn 110 ha năm 2020 xuống còn khoảng 65 ha năm 2025. Trước thực trạng này, tỉnh Quảng Ninh đã đặt hàng Bộ KH&CN giao Viện Bảo vệ thực vật chủ trì nghiên cứu, nhằm tìm giải pháp quản lý hiệu quả và bền vững.
Đồng chí Phạm Hồng Thái – Phó Giám đốc Sở KH&CN cùng đoàn công tác, Viện Bảo vệ thực vật, đại diện các hộ dân tại các điểm tham quan mô hình.
Trong khuôn khổ hội nghị, các đại biểu tham quan ba điểm mô hình: hộ xã viên Nịnh Văn Năm (thôn Thành Công, xã Ba Chẽ) với mô hình trồng mới; hộ xã viên Lan Văn Thành (thôn Làng Dạ, xã Kỳ Thượng) với mô hình trồng mới; và mô hình ba kích thương phẩm tại hộ xã viên Nguyễn Văn Tiên và Hoàng Văn Quang. Tại hiện trường, TS. Nguyễn Mạnh Hùng và ThS. Ngô Quang Huy (Viện Bảo vệ thực vật) giới thiệu quy trình áp dụng biện pháp kỹ thuật, kết hợp chế phẩm sinh học và thuốc hóa học trong phòng trừ bệnh hại.
PGS.TS. Trịnh Xuân Hoạt (áo trắng), chủ nhiệm nhiệm vụ tại điểm mô hình nuôi trồng, chăm sóc cây ba kích.
Hình ảnh cây ba kích tại mô hình ba kích thương phẩm tại hộ xã viên Nịnh Văn Năm (thôn Thành Công, xã Ba Chẽ).
Hình ảnh cây ba kích tại mô hình ba kích thương phẩm tại hộ xã viên Nguyễn Văn Tiên và Hoàng Văn Quang.
PGS.TS. Trịnh Xuân Hoạt, Chủ nhiệm nhiệm vụ phát biểu tại Hội nghị.
Sau gần ba năm triển khai, nhóm nghiên cứu đã xác định rõ hai tác nhân chính gây bệnh là nấm Fusarium oxysporum và tuyến trùng Meloidogyne incognita. Trên cơ sở đó, Viện Bảo vệ thực vật đã hoàn thiện quy trình sản xuất cây giống ba kích tím sạch bệnh, cung cấp trên 160.000 cây giống cho địa phương. Đồng thời, đề tài xây dựng mô hình quy mô 3 ha (1,5 ha trồng mới, 1,5 ha thương phẩm). Kết quả bước đầu cho thấy, tỷ lệ phòng trừ dịch hại đạt trên 82%, hiệu quả kinh tế tăng hơn 60% so với mô hình đối chứng. Các chế phẩm sử dụng đều an toàn, không ảnh hưởng đến dược tính của củ ba kích.
Đồng chí Phạm Hồng Thái – Phó Giám đốc Sở KH&CN phát biểu tại Hội nghị.
Tại Hội nghị, đồng chí Đặng Văn Minh – Chi nhánh dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp số 7, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Ninh đề xuất Bộ KH&CN và Sở KH&CN tiếp tục quan tâm triển khai công tác phục tráng, bảo tồn nguồn gen ba kích tím, coi đây là nền tảng để phát triển vùng nguyên liệu ổn định, chất lượng.
Đồng chí Nguyễn Thanh Tùng – Phó Chủ tịch UBND xã Kỳ Thượng, tỉnh Quảng Ninh cũng kiến nghị cần đẩy mạnh nghiên cứu đa dạng hóa sản phẩm từ ba kích như rượu, trà, cao dược liệu… nhằm gia tăng giá trị kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ, qua đó đưa ba kích trở thành sản phẩm chủ lực gắn với phát triển OCOP, du lịch sinh thái và kinh tế dưới tán rừng của xã Ba Chẽ.
Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Phạm Hồng Thái – Phó Giám đốc Sở KH&CN nhấn mạnh: Kết quả nghiên cứu và mô hình ứng dụng đã mở ra triển vọng khôi phục, phát triển bền vững vùng trồng ba kích tại Ba Chẽ – Kỳ Thượng và nhiều địa phương khác. Đây là minh chứng rõ nét cho sự đồng hành giữa nhà khoa học – cơ quan quản lý – nông dân trong phát triển cây dược liệu đặc hữu, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân miền núi và thúc đẩy kinh tế dưới tán rừng. Đồng chí đề nghị UBND các xã chủ động rà soát, đề xuất nhiệm vụ KH&CN phù hợp với nhu cầu thực tiễn, nhằm phát triển bền vững vùng trồng ba kích, mở rộng quy mô, nâng cao giá trị và xây dựng thương hiệu gắn với địa phương.
Toàn cảnh Hội nghị.
Các hộ dân thu hoạch Ba kích tại xã Kỳ Thượng, tỉnh Quảng Ninh.
Hội nghị đầu bờ không chỉ giúp nông dân trực tiếp tiếp cận, học hỏi kỹ thuật mới mà còn tạo tiền đề để Quảng Ninh nhân rộng mô hình, đưa ba kích trở thành cây dược liệu chủ lực, mang lại giá trị kinh tế – xã hội bền vững.