Ngành dệt may làm gì để tăng năng suất chất lượng?

(CL&CS)- Ngành dệt may Việt Nam đã và đang ứng dụng nhiều quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc gia nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, từ đó tăng năng lực cạnh tranh.

Hiện nay Việt Nam đang ngày càng tham gia sâu vào thị trường quốc tế thông qua các hiệp định thương mại tự do, việc nâng cao năng suất, chất lượng được coi là một trong những yêu cầu bắt buộc để doanh nghiệp dệt may Việt Nam ngày càng có chỗ đứng trên thị trường, chiếm ưu thế trong việc nhận đơn hàng từ các thương hiệu lớn. Muốn đạt được điều này, ngành dệt may cần tuân thủ nghiêm túc các tiêu chuẩn đặc thù về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Tính đến nay, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam về dệt và may mặc có khoảng 313 tiêu chuẩn; trong đó, nổi bật là các tiêu chuẩn về xác định các chất độc hại tồn dư trong sản phẩm dệt - may: TCVN 12512-1:2018; TCVN 12512-3:2018; TCVN 7421-1:2013; TCVN 7421-2:2013. Các tiêu chuẩn được xây dựng chủ yếu chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế (ISO), tiêu chuẩn châu Âu (EN). Do đó, mức độ hài hòa với quốc tế là rất cao, phản ánh sự tương thích với thông lệ quốc tế và xu hướng chung, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về chất lượng của sản phẩm dệt - may Việt Nam, tạo thuận lợi cho xuất khẩu sang các nước. Bên cạnh đó, còn có nhiều tiêu chuẩn tự xây dựng dựa trên trình độ khoa học và công nghệ, nhu cầu và đặc trưng của Việt Nam. Các tiêu chuẩn này chủ yếu được xây dựng từ những năm 1980, 1990 của Thế kỷ XX. Sau khi Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật có hiệu lực năm 2007, một số tiêu chuẩn này đã được rà soát, chuyển đổi hoặc giữ nguyên hiệu lực áp dụng.

Theo các chuyên gia nhận định, để tăng năng suất chất lượng đáp ứng yêu cầu của các thị trường nhập khẩu, ngành dệt may Việt Nam đã và đang ứng dụng nhiều quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc gia nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, từ đó tăng năng lực cạnh tranh. Bên cạnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, để khai thác thị trường châu Âu, doanh nghiệp dệt may Việt Nam đáp ứng Quy định đăng ký, đánh giá, chứng nhận và hạn chế các chất hóa học (REACH) của Liên minh châu Âu (EU); áp dụng phổ biến bộ tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải QCVN 13:2008/BTNMT. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp may Việt Nam còn sử dụng Chỉ số Higg của Hiệp hội May mặc bền vững như là công cụ tự đánh giá tác động môi trường và xã hội.

Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đặc biệt chú ý tới việc áp dụng các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội để đảm bảo hội nhập bền vững với các thị trường lớn trên thế giới như: SA8000 -Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội; Bộ tiêu chuẩn WRAP về chứng nhận tuân thủ trách nhiệm xã hội cho doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực may mặc và xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ; Bộ tiêu chuẩn BSCI đánh giá tuân thủ trách nhiệm xã hội trong kinh doanh của doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang thị trường EU.

Nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã ứng dụng hiệu quả các mô hình, kỹ thuật tổ chức sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm như: Mô hình sản xuất tinh gọn Lean, công cụ như cân bằng chuyền, bảo trì năng suất tổng thể (TPM), hệ thống cảnh bảo trực quan Andon, cải tiến liên tục (kaizen), tiêu chuẩn hóa thao tác (SW)…

Ngành Dệt may có 6 xu hướng phát triển chính. Thứ nhất là tính bền vững và thời trang tuần hoàn, đề cập đến việc các nhà nhập khẩu lớn đang tập trung vào các chỉ số phát triển bền vững ESG, tiêu chuẩn xanh hướng đến Net Zero.

Thứ hai là số hóa công nghiệp 4.0, đề cập đến việc tăng cường tích hợp công nghệ, tự động hóa và phân tích dữ liệu vào sản xuất dệt may.

Thứ ba là người mua chủ động do ảnh hưởng của sử dụng các nền tảng mạng xã hội, người tiêu dùng được nhìn thấy và “chốt đơn” sản phẩm ngay trên môi trường thương mại điện tử.

Thứ tư là xu hướng lao động chất lượng cao. Các doanh nghiệp hiện nay đều có nhu cầu tuyển dụng lao động tay nghề cao như kỹ sư, quản lý, chuyên gia thiết kế, kiểm tra chất lượng và lao động được đào tạo chuyên nghiệp…

Thứ năm là xu hướng sử dụng vật liệu tiên tiến nhằm hướng đến thân thiện môi trường và phát triển bền vững.

Thứ sáu là sự biến động thương mại địa chính trị. Những thay đổi liên tục trong động lực thương mại toàn cầu và thuế quan ảnh hưởng đến ngành Dệt may, dẫn đến việc thiết lập lại chuỗi cung ứng lớn. Hơn nữa, động thái dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là từ Trung Quốc sang các quốc gia khác có thể tạo cơ hội cho ngành Dệt may của Việt Nam.

TIN LIÊN QUAN