Năng suất xanh – đòn bẩy tăng trưởng bền vững cho doanh nghiệp

(CL&CS) - Năng suất xanh, Green Productivity (GP) không chỉ giúp tiết kiệm nguyên liệu, giảm chi phí và năng lượng, mà còn bảo vệ môi trường được nhiều doanh nghiệp Việt áp dụng thành công.

Năng suất xanh (GP) được Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) giới thiệu nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, tổ chức và doanh nghiệp về sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường. Năng suất xanh không chỉ yêu cầu sản phẩm, dịch vụ phải “xanh” mà còn chú trọng quy trình sản xuất và cung ứng bền vững. Lợi ích cốt lõi của năng suất xanh là nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu ô nhiễm, sử dụng hiệu quả nguồn lực, từ đó tiết kiệm chi phí và tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. năng suất xanh được triển khai qua sự kết hợp linh hoạt các công cụ, kỹ thuật và công nghệ: hệ thống quản lý môi trường ISO 14000, quản lý năng lượng ISO 50001, hạch toán chi phí dòng nguyên liệu (MFCA theo ISO 14021:2011), mô hình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (Global GAP), các công cụ thống kê chất lượng, 5S, 3R, benchmarking…

 Ảnh minh họa

Áp dụng năng suất xanh giúp doanh nghiệp xác định và loại bỏ lãng phí từ khâu nguyên liệu, năng lượng, nhân công đến chất thải, đồng thời tăng cường tính minh bạch, truy xuất nguồn gốc và nâng cao trách nhiệm xã hội. Khi việc giảm tiêu hao nguyên liệu và năng lượng trở thành một phần trong chiến lược phát triển, doanh nghiệp không chỉ cải thiện biên lợi nhuận mà còn gia tăng uy tín thương hiệu.

Theo ông Nguyễn Văn Khôi – Trưởng Ban Tiêu chuẩn, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia, xu thế năng suất xanh đang trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là khi phải tuân thủ cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Châu Âu về giảm phát thải carbon. Việc chủ động áp dụng năng suất xanh ngay từ giai đoạn thiết kế sản phẩm và quy trình sản xuất sẽ giúp doanh nghiệp chủ động đáp ứng các tiêu chí xanh khắt khe của thị trường quốc tế.

Năng suất xanh không phải là một “phong trào” mang tính thời vụ mà là chiến lược dài hạn. Khi doanh nghiệp tích hợp đồng bộ các hệ thống quản lý, từ môi trường, năng lượng đến chất lượng, họ tạo ra một nền tảng bền vững cho đổi mới công nghệ, giảm chi phí vận hành và tăng cường khả năng cạnh tranh. năng suất xanh còn thúc đẩy sáng kiến cải tiến liên tục (Kaizen), khuyến khích nhân viên đề xuất giải pháp tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhiều doanh nghiệp đã chứng minh hiệu quả khi coi năng suất xanh là kim chỉ nam trong quản trị, từ đó đạt được kết quả kinh tế – môi trường đồng thời.

Thực tế tại doanh nghiệp Việt đã có những mô hình thí điểm năng suất xanh thành công. Công ty TNHH XDD Textile, điển hình trong ngành dệt may, đã áp dụng công cụ 5S và MFCA từ khâu tiếp nhận bông nguyên liệu đến khâu hoàn thiện sợi. Năm 2024, nhờ các sáng kiến cải tiến khe hở bông rơi và tối ưu đóng gói, công ty tiết kiệm được khoảng 750 tấn bông, dư sức vượt 1.300 tấn sản lượng so với kế hoạch khi đạt hơn 53.000 tấn sợi. Bà Nguyễn Thị Thơm - Phó Giám đốc Kỹ thuật sản xuất, cho biết việc khuyến khích người lao động nghiên cứu sáng kiến giúp gia tăng tỷ lệ tận dụng nguyên liệu và giảm phát thải, đồng thời vẫn duy trì chất lượng, năng suất cao.

Đối với ngành giấy, Công ty Cổ phần Giấy Hiệp Thành đã thực hiện hệ thống quản lý môi trường và áp dụng MFCA, giúp giảm 4 % phế phẩm giấy nguyên liệu đầu vào trung bình mỗi tháng và tiết kiệm chi phí điện năng, nhiên liệu tại khu vực lò hơi gần 140 triệu đồng/năm.

Thực phẩm tươi sống cũng hưởng lợi từ năng suất xanh, đơn cử Công ty TNHH Rau Quả Hùng Hậu áp dụng các giải pháp tiết kiệm nước và điện, giảm 15 % tiêu thụ, giảm phế phẩm 33–46 % và tiết kiệm chi phí xử lý chất thải 10 %, đồng thời nâng năng suất lao động khi thời gian thao tác giảm 16,67 %.

Ngành sắt thép và hàng không quốc tế đã chuyển mình khi đối mặt cơ chế CBAM, yêu cầu ổn định phát thải và sử dụng nhiên liệu sạch. Các hãng bay lớn đang nghiên cứu sử dụng nhiên liệu sinh học, trong khi doanh nghiệp thép đầu tư công nghệ thu hồi nhiệt thải và tái chế tro xỉ. Đây là minh chứng cho thấy năng suất xanh không chỉ gói gọn trong sản xuất công nghiệp nhẹ mà còn áp dụng trên quy mô rộng, cả trong các ngành có mức tiêu hao năng lượng lớn.

Về phía cơ quan quản lý, Viện Năng suất Việt Nam thuộc Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia đã triển khai chương trình điểm về năng suất xanh từ năm 1988 với 20 tỉnh thành, chủ yếu trong nông nghiệp và dịch vụ. TS Nguyễn Tùng Lâm – Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam cho biết, việc tổ chức hội thảo, đào tạo và tích hợp vốn hỗ trợ từ APO đã giúp doanh nghiệp, cộng đồng nắm vững công cụ phân tích và lộ trình hành động. Tính đến nay, mô hình năng suất xanh của Viện đã được thử nghiệm tại 20 tỉnh, thành phố trong các lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ, giúp doanh nghiệp và cộng đồng địa phương tiếp cận hệ thống công cụ phân tích, đánh giá tác động môi trường, đồng thời ưu tiên các giải pháp cải tiến hiệu quả.

Trong giai đoạn tiếp theo, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia tiếp tục mở rộng đào tạo, hội thảo và hỗ trợ kỹ thuật để đẩy mạnh việc áp dụng năng suất xanh trên quy mô toàn quốc. Bên cạnh đó, Quyết định 1322/QĐ TTg ngày 31/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng giai đoạn 2021–2030 đã đưa năng suất xanh vào nhóm ưu tiên, thúc đẩy nguồn lực đào tạo, truyền thông và hợp tác quốc tế.

TIN LIÊN QUAN