Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT) cho biết, diện tích đất canh tác nông nghiệp hữu cơ cả nước năm 2016 là hơn 53.000ha. Diện tích này vẫn thấp hơn nhiều so với các nước châu Á, đứng thứ 3 trong ASEAN. Diện tích đất canh tác hữu cơ năm 2020 tăng lên 174.300ha; tăng 47% so với năm 2016.
Đến năm năm 2021, hầu hết các địa phương trên cả nước đã tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ hoặc đang chuyển đổi sang canh tác hữu cơ. Lực lượng các tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ ngày một đông đảo.
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ tiêu thụ hàng năm khoảng 500 tỷ đồng ở thị trường trong nước; chủ yếu tiêu thụ tại 2 thành phố lớn là TP.HCM và Hà Nội (chiếm 80% cả nước, đạt khoảng 400 tỷ đồng/năm)
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hiện nay đạt khoảng trên 335 triệu USD/năm, tới 180 thị trường trên thế giới. Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết, các sản phẩm hữu cơ được xuất khẩu là chè, tôm, gạo, hạt điều, hạt tiêu, quế, hồi, tinh dầu, gia vị... với số lượng còn rất hạn chế.
Trong khi đó, Ông Nguyễn Quốc Toản – Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đánh giá, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra trong phát triển nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.
Theo ông Toản, trước hết, cần phải nhìn nhận nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đang có xu hướng tăng mạnh và vượt quá nguồn cung. Tuy nhiên, xu hướng tăng cường các quy định về chất lượng và an toàn thực phẩm, hướng tới bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường tại tất cả các quốc gia bao gồm cả Việt Nam đang ngày càng tăng cao.
Trong nước, nông nghiệp hữu cơ vẫn đang thiếu các cơ chế hỗ trợ đủ mạnh, thiếu các cơ chế đặc thù để hiện thực hóa chính sách nhằm khuyến khích đầu tư và phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Một khó khăn nữa là việc quy hoạch, liên kết vùng, liên kết doanh nghiệp còn bất cập. Khâu tổ chức sản xuất theo chuỗi chưa triển khai được trên diện rộng nên phát triển nông nghiệp hữu cơ chưa đem lại hiệu quả rõ rệt. Năng lực của các tổ chức chứng nhận, kinh nghiệm của chuyên gia đánh giá còn hạn chế, chưa có nhiều chuyên gia giỏi và chuyên sâu về nông nghiệp hữu cơ.
Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản nhìn nhận, trên thị trường, ngành chức năng chưa có cơ chế quản lý xử phạt về ghi nhãn sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Sản phẩm hữu cơ được chứng nhận theo TCVN của Việt Nam chưa thực sự có uy tín và được chấp nhận trên thị trường thế giới.
Ông Nguyễn Như Tiệp - Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản cho rằng, công tác xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm hữu cơ chưa được đầu tư thực hiện rộng rãi, duy trì thường xuyên với quy mô lớn.
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ là sản phẩm cao cấp, tiêu chuẩn cao, giá thành cao nên kén người dùng. Đó là điều đó cần thừa nhận để định hướng phát triển cho nông nghiệp hữu cơ.
Theo ông Tiệp, muốn phát triển cho nông nghiệp hữu cơ thì trước hết phải phát triển thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Sau đó là nâng cấp tiêu chuẩn chứng nhận của Việt Nam.
Ngành nông nghiệp ghi nhận ý kiến của nhiều cá nhân, đơn vị trong cách gọi tên còn mập mờ như: định hướng hữu cơ, hướng tới hữu cơ. Việc này cần phải nhất quán trong thuật ngữ.
"Tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam cũng cần phải hoàn thiện nhiều và nhanh để sớm đạt mức tương đồng thế giới", ông Tiệp nói.
Theo Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam, trong mục tiêu dài hạn, diện tích đất phục vụ sản xuất nông nghiệp hữu cơ chỉ chiếm một phần rất nhỏ, không phục vụ cho an ninh lương thực như nhóm sản phẩm khác.
Thực tế là nông nghiệp hữu cơ trong nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục để phát triển tương xứng nhu cầu thị trường. Ngành chức năng và Bộ NNPTNT còn rất nhiều việc phải làm, trong đó có việc hoàn thiện tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ Việt Nam từng bước ngang bằng thế giới.
"Các cơ chế, chính sách hỗ trợ nông nghiệp hữu cơ sẽ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện sau khi ghi nhận đầy đủ ý kiến từ các đơn vị quản lý, và các địa phương đang trực tiếp triển khai", Thứ trưởng Nam chia sẻ.