Nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển logistics

(NTD) - Chương trình hội thảo “Nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển logistics, gắn với đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Liên minh châu Âu”, vừa diễn ra tại Hà Nội.

-Chương trình do Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công thương) phối hợp với Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và cạnh tranh, cùng các đơn vị liên quan phối hợp tổ chức, nhằm giúp các doanh nghiệp (DN) Việt Nam hiểu rõ hơn những cam kết của EVFTA trong các lĩnh vực ảnh hưởng tới ngành dịch vụ logistics của Việt Nam và có cái nhìn sâu rộng hơn về cơ hội, thách thức, tác động mà EVFTA mang lại,

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 11 tháng năm 2019, xuất khẩu (XK) của Việt Nam đạt 241,7 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2018, đạt chỉ tiêu 7-8% của Quốc hội giao; kim ngạch nhập khẩu (NK) đạt 230,7 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2018. Tổng kim ngạch XNK đạt khoảng 472 tỷ USD trong 11 tháng năm 2019. Với tiến độ như hiện nay, tổng kim ngạch XNK của Việt Nam sẽ vượt mốc 500 tỷ USD vào nửa sau tháng 12/2019.

 

Bên cạnh đó, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) được ký ngày 30/6/2019 và đang trong quá trình phê chuẩn nội bộ để chính thức có hiệu lực. Dịch vụ logistics, như: vận tải, hỗ trợ vận tải,… là những dịch vụ có các cam kết đáng chú ý, theo hướng mở cửa mạnh hơn đáng kể so với Hiệp định thương mại quốc tế (WTO). Với tốc độ phát triển hàng năm đạt 16 - 20%, dự kiến EVFTA sẽ giúp gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics và có tác động đáng kể đến triển vọng thị trường và ngành logistics Việt Nam.

Phát biểu tại Hội thảo lãnh đạo Bộ công thương cho biết: "Trước cơ hội rộng mở của giao dịch thương mại song phương, câu hỏi được đặt ra ở đây: làm thế nào để ngành logistics Việt Nam có thể hưởng lợi từ EVFTA ? Bởi mối quan hệ thương mại được tăng cường trong khuôn khổ EVFTA có thể làm tăng nhu cầu vận chuyển không chỉ giữa EU và Việt Nam, mà còn với cả EU và Đông Nam Á. Sau EVFTA, không chỉ có nhu cầu về vận chuyển, kho bãi tăng, mà nhu cầu nâng cao chất lượng, điều kiện của kho bãi và công tác vận chuyển cũng sẽ được đặt ra, nhất là trong điều kiện ngành logistics Việt Nam và châu Âu còn rất nhiều khoảng cách.

Hiện Việt Nam có gần 1.500 DN cung cấp dịch vụ logistics. Theo điều tra năm 2018 của World Bank, Việt Nam đứng thứ 39/160 quốc gia tham gia về chỉ số năng lực logistics (LPI), đứng thứ 4 trong ASEAN, sau Singapore, Malaysia, Thái Lan. Từ năm 2017, chính phủ Việt Nam đã xác định mục tiêu cụ thể cho ngành logistics: đưa Việt Nam trở thành trung tâm logistics của khu vực vào năm 2025. Kế hoạch chính sách này đã và đang được dần hiện thực hóa với rất nhiều nỗ lực, như: thu hút đầu tư nước ngoài, cải cách thủ tục hải quan và hợp tác với các đối tác nước ngoài trong các dự án cơ sở hạ tầng. Với EVFTA, dự kiến kim ngạch XK sang các nước EU sẽ tăng mạnh trong thời gian tới, tác động tích cực đến triển vọng thị trường và phát triển của ngành logistics Việt Nam. Tự do hóa cũng sẽ mời gọi các nhà đầu tư EU cùng tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ logistics, vận tải hàng hải khác nhau cho thị trường Việt Nam, bao gồm DN hàng hải, dịch vụ xử lý hàng hóa, container, dịch vụ lưu trữ và kho bãi. Các DN logistics Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác, học hỏi, và gọi vốn từ các công ty đa quốc gia, các đội tàu lớn hiện đại và chiếm thị phần lớn trên thị trường logisics thế giới đến từ châu  Âu. Đây có thể coi là một lợi thế của Việt Nam sau EVFTA. Bởi theo bảng xếp hạng LPI 2018, Đức là quốc gia đứng đầu trong lĩnh vực logistics. Hai quốc gia đồng hạng thứ hai cũng nằm trong khối EU - Hà Lan và Thụy Điển.

Bên cạnh các cơ hội và tiềm năng, DN Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức mới, do EVFTA mang tới. Trong lộ trình miễn thuế, với các mặt hàng như: thực phẩm, dược phẩm, thiết bị máy móc từ EU XK sang Việt Nam, nhu cầu của các DN châu Âu sẽ đòi hỏi một hệ thống logistics và vận chuyển đảm bảo được các yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn và quy trình kiểm soát quốc tế, để mọi hàng hóa của châu Âu được đảm bảo giữ nguyên chất lượng tới người tiêu dùng Việt Nam. Đối với hàng XK từ Việt Nam, các mặt hàng truyền thống, hay các mặt hàng mới, cũng cần có sự bảo đảm tốt hơn về chất lượng bảo quản, vận chuyển đặc biệt là nhóm hàng nông sản, mây tre đan, đồ gỗ - những mặt hàng dễ bị thay đổi chất lượng do điều kiện nhiệt độ, môi trường.

Thanh Tùng

Nên đọc