Khai mở giá trị làng nghề Hà Nội: Nguồn lực văn hóa cho công nghiệp Thủ đô

(CL&CS) - Làng nghề Hà Nội đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, khi giá trị truyền thống được đánh thức bằng tư duy kinh tế sáng tạo và chiến lược phát triển bền vững. Nhiều chuyên gia khẳng định, với hơn 1.300 làng nghề lớn nhất cả nước, Hà Nội sở hữu kho tàng di sản độc đáo có thể trở thành nguồn lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp văn hóa trong tương lai.

Làng nghề cần được nhìn như tài sản văn hóa - kinh tế của Thủ đô

Trong nhiều năm qua, làng nghề luôn đóng vai trò là “trụ đỡ” kinh tế tại nhiều địa phương của Hà Nội. Không chỉ tạo việc làm ổn định cho hàng trăm nghìn lao động, làng nghề còn góp phần duy trì nguồn thu bền vững, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế nông thôn và làm phong phú đời sống văn hóa cộng đồng. Tại nhiều xã, phường, kinh tế làng nghề chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, trở thành nguồn lực để đầu tư trở lại cho hạ tầng, an sinh và phát triển du lịch.

Làng nghề, sản phẩm làng nghề được xem như tài sản văn hoá - kinh tế của Thủ đô. Ảnh Đỗ Đạt

Giá trị kinh tế ấy càng có ý nghĩa khi làng nghề không chỉ sản xuất hàng hóa, mà còn lưu giữ kỹ năng, tri thức và bản sắc văn hóa hàng trăm năm. Chính sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và tư duy sáng tạo đã giúp sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Hà Nội từng bước chinh phục thị trường, từ nội địa đến quốc tế. Đây là nền tảng quan trọng để Thủ đô xây dựng thương hiệu văn hóa, phát triển công nghiệp sáng tạo và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Chia sẻ tại tọa đàm “Đánh thức giá trị làng nghề: Kết nối đầu tư - Lan tỏa văn hóa Thăng Long”, bà Nghiêm Thị Hoàng Anh - Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư và Hỗ trợ doanh nghiệp Hà Nội, nhấn mạnh, làng nghề không chỉ lưu giữ hồn cốt văn hóa Thăng Long - Hà Nội, mà còn là tài sản kinh tế quý giá nếu được khai thác đúng hướng. Điều Thủ đô cần lúc này không chỉ là bảo tồn, mà phải đánh thức giá trị để công nghiệp văn hóa lan tỏa mạnh mẽ hơn.

Bà Hoàng Anh cho rằng, sự đa dạng nghề truyền thống từ đúc đồng, kim hoàn, mây tre đan, gốm sứ, tranh dân gian đến chế tác thủ công mỹ nghệ chính là “vốn liếng tự nhiên” để Hà Nội phát triển các ngành công nghiệp văn hóa như thiết kế sáng tạo, sản phẩm lưu niệm, du lịch, trình diễn nghệ thuật và quảng bá hình ảnh địa phương. Để khai thác hiệu quả, Hà Nội cần có chiến lược bài bản trong xây dựng thương hiệu, chuẩn hóa chất lượng sản phẩm, chuyển đổi số và đặc biệt là phát triển các mô hình du lịch làng nghề gắn với văn hóa bản địa.

Số liệu từ Sở Công Thương Hà Nội cho thấy, Thủ đô hiện có hơn 1.300 làng nghề và làng nghề truyền thống, chiếm 56% số lượng làng nghề cả nước. Không chỉ dừng lại ở con số, đây là “di sản sống” thể hiện rõ nhất sức sáng tạo và bản sắc văn hóa của người Hà Nội.

Đề cập đến vai trò của làng nghề, cũng như giá trị các sản phẩm làng nghề của Hà Nội mang lại đối với sự phát triển chung của kinh tế - xã hội Thủ đô, bà Hà Thị Vinh - Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, chia sẻ, sản phẩm làng nghề Hà Nội không chỉ mang giá trị văn hóa truyền thống, mà còn thể hiện phong cách sáng tạo của từng thế hệ nghệ nhân. Sự đổi mới liên tục ấy giúp sản phẩm thủ công của Hà Nội tạo dựng vị thế tại thị trường quốc tế, đóng góp ngày càng rõ nét vào công nghiệp văn hóa của Thủ đô.

"Khi được hỗ trợ về thiết kế sáng tạo, thị trường và liên kết sản xuất, sản phẩm làng nghề sẽ trở thành nhóm hàng chủ lực trong bộ sưu tập sản phẩm quà tặng đặc trưng của Hà Nội - Thành phố sáng tạo của UNESCO", bà Hà Thị Vinh bày tỏ.

Tạo sức bật cho sản phẩm làng nghề Hà Nội

Không chỉ dừng ở nỗ lực khơi lại giá trị truyền thống, Hà Nội đang hướng đến một cách tiếp cận mới: phát triển làng nghề theo hướng kinh tế sáng tạo và thu hút đầu tư dài hạn. Nhiều doanh nghiệp, nhà thiết kế và đơn vị du lịch đang trở thành “đối tác chiến lược” của các làng nghề, đưa sản phẩm đi xa hơn thông qua cải tiến mẫu mã, kể câu chuyện văn hóa và ứng dụng công nghệ.

Nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh (bên phải) chia sẻ về sản phẩm mây tre đan của làng nghề Phú Vinh. (Ảnh Đỗ Đạt)

Tuy nhiên, một trong những thách thức đối với các làng nghề đó chính là bài toán về nhân lực. Theo số liệu các chuyên gia chia sẻ tại tọa đàm, nguồn lao động lành nghề đang suy giảm nhanh, trong đó khoảng 60 đến 70% là lao động lớn tuổi. Lực lượng trẻ tìm hướng đi mới có thu nhập ổn định hơn, dẫn đến nguy cơ mai một kỹ thuật truyền thống và đứt gãy truyền nghề.

Nghệ nhân nhân dân Nguyễn Văn Tĩnh từ làng nghề mây tre đan Phú Nghĩa cho rằng, sinh viên có kiến thức thiết kế và mỹ thuật vẫn chưa tiếp cận được với làng nghề. Trong khi nghệ nhân lớn tuổi đang già đi, khoảng cách giữa đào tạo và thực hành nghề vẫn còn xa. Ông Tĩnh nhấn mạnh đầu tư vào công nghệ và khoa học sẽ giúp các làng nghề thoát khỏi tình trạng "kêu cứu", mở đường để nghề tỏa sáng đúng tiềm năng.

Để khắc phục những khó khăn về nguồn nhân lực, nhiều làng nghề đã chuyển đổi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế tạo. Tại Bát Tràng, các nghệ nhân đã mạnh dạn kết hợp kỹ thuật gốm truyền thống với nghệ thuật đương đại, tạo ra những dòng sản phẩm tinh xảo, đáp ứng nhu cầu quà tặng cao cấp. Lụa Vạn Phúc tiếp tục đổi mới họa tiết, chất liệu, ứng dụng công nghệ dệt mới, giúp lụa Hà Nội giữ được vẻ mềm mại truyền thống nhưng phù hợp hơn với thị hiếu thời trang hiện đại. Trong khi đó, nghề mộc, nghề sơn mài, nghề thêu ở nhiều địa phương đã thu hút sự tham gia của đội ngũ nhà thiết kế trẻ, những người mang đến tư duy mới về sản phẩm thủ công, tạo ra những bộ sưu tập mang đậm tính ứng dụng và giá trị thẩm mỹ.

Sự đổi mới này không xuất phát từ phong trào ngắn hạn, mà là kết quả của quá trình kết nối giữa bốn chủ thể: nhà quản lý - nghệ nhân - doanh nghiệp - nhà thiết kế. Khi hợp tác được thiết lập, chuỗi giá trị của sản phẩm làng nghề được kéo dài từ khâu nguyên liệu, thiết kế, sản xuất, truyền thông đến phân phối. Điều này giúp nâng cao giá trị sản phẩm và mở ra thị trường mới.

Hà Nội cũng đang khuyến khích đầu tư vào công nghệ sản xuất sạch, hệ thống xử lý môi trường, nâng cấp hạ tầng giao thông nội bộ tại các làng nghề, hướng đến phát triển bền vững và bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu. Một số địa phương đã xây dựng trung tâm giới thiệu sản phẩm, không gian sáng tạo và khu thực hành nghề dành cho du khách, mô hình thường thấy ở các quốc gia có ngành công nghiệp thủ công phát triển như Nhật Bản hay Hàn Quốc.

Cùng với đó, chuyển đổi số đang trở thành “cánh tay nối dài” quan trọng. Nhiều hộ sản xuất đã chủ động livestream bán hàng, xây dựng sàn thương mại điện tử riêng, hoặc hợp tác với các nền tảng quốc tế như Etsy, Amazon Handmade. Việc đưa sản phẩm lên môi trường số giúp làng nghề tiếp cận khách hàng toàn cầu, giảm đáng kể chi phí trung gian, đồng thời gia tăng nhận diện thương hiệu.

Song song với phát triển kinh tế, các làng nghề còn được coi như “bảo tàng văn hóa sống” của Hà Nội. Nhiều công ty du lịch đã xây dựng tour trải nghiệm từ làm gốm, dệt lụa đến chế tác đồ thủ công mỹ nghệ thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước, góp phần đưa văn hóa Thăng Long lan tỏa mạnh mẽ.

TIN LIÊN QUAN