Các mục tiêu phát triển bền vững
Tháng 9/2015, tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hiệp quốc về phát triển bền vững, các quốc gia trên thế giới đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals – SDG) là mục tiêu phổ quát được đưa ra nhằm chấm dứt đói nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo rằng tất cả mọi người được hưởng hòa bình và thịnh vượng vào năm 2030 ở mỗi quốc gia thành viên Liên hiệp quốc (LHQ). SDG là sự tiếp nối của Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals – MDG).
Các SDG dựa trên sáu chủ đề bao gồm: nhân phẩm, con người, hành tinh, quan hệ đối tác, công lý và thịnh vượng. SDG toàn diện hơn so với MDG và bao gồm 17 mục tiêu, được xác định bởi 169 mục tiêu cụ thể và 232 chỉ tiêu. Những mục tiêu này không chỉ bao gồm phát triển xã hội mà còn đề cập đến các vấn đề như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng kinh tế, đổi mới, tiêu dùng bền vững, hòa bình, công bằng… Các mục tiêu được kết nối với nhau và thành công trong một mục tiêu có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực khác.
17 mục tiêu phát triển bền vững của Thế giới giai đoạn 2015-2030
Nhằm cụ thể hóa Chương trình nghị sự 2030 tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017), trong đó đã đề ra 17 mục tiêu phát triển bền vững với 115 mục tiêu cụ thể. Năm 2019, để cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 681/QĐ-TTg về lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030. Ngày 25 tháng 9 năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững trong các ngành, các cấp và các địa phương đến năm 2030.
Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) về thực phẩm đáp ứng SDG
Theo thống kê sơ bộ, đến nay hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về thực phẩm có khoảng 1900 TCVN, bao gồm tiêu chuẩn đối với nông sản và sản phẩm thực phẩm chế biến, các quy phạm thực hành vệ sinh và các phương pháp thử đối với các chỉ tiêu của sản phẩm thực phẩm. Trong số đó, có khoảng 60% số TCVN đề cập đến vấn đề an toàn thực phẩm (ATTP), số TCVN còn lại chủ yếu là các phương pháp thử các chỉ tiêu chất lượng không liên quan trực tiếp đến yếu tố ATTP. Tỷ lệ hài hòa của hệ thống TCVN về thực phẩm hiện đạt gần 85%.
Các TCVN về thực phẩm chủ yếu đáp ứng 6 SDG sau đây:
SDG 1 toàn cầu là “No poverty” (Chấm dứt mọi hình thức nghèo), SDG 1 tương ứng của Việt Nam là “Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi”. Xóa nghèo dưới mọi hình thức và mọi khía cạnh là thách thức toàn cầu lớn nhất và là yêu cầu tất yếu để phát triển bền vững. Tỷ lệ hài hòa khá cao của hệ thống TCVN về thực phẩm góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận các thị trường quốc tế và thúc đẩy thương mại, từ đó tạo ra việc làm. Việc đạt được mục tiêu này đồng nghĩa với việc chấm dứt nghèo trong lĩnh vực nông nghiệp và sản xuất thực phẩm.
SDG 2 toàn cầu là “Zero hunger” (Xóa đói), SDG 2 Việt Nam là “Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững”. Đây là một mục tiêu rõ ràng của các TCVN về thực phẩm. Mục tiêu 2.1 của SDG 2 là đến năm 2030 sẽ chấm dứt tình trạng thiếu đói và đảm bảo tất cả mọi người, đặc biệt những người nghèo và những người dễ bị tổn thương, bao gồm cả người cao tuổi và trẻ sơ sinh, được tiếp cận với thực phẩm an toàn, đủ dinh dưỡng và đầy đủ quanh năm. SDG 2 cũng đề cập đến thương mại và nêu rõ sự cần thiết phải điều chỉnh và ngăn chặn các hạn chế thương mại - một khía cạnh trọng tâm khác của các tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế cũng như các TCVN về thực phẩm.
SDG 3 toàn cầu là “Good health and well-being” (Sức khỏe tốt và hạnh phúc), SDG 3 Việt Nam là “Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi”. Các TCVN về thực phẩm hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế góp phần bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Việc tăng cường hệ thống an toàn thực phẩm giúp giảm gánh nặng bệnh tật do thực phẩm. Các TCVN về thực phẩm hiện đang hỗ trợ rất tốt đối với hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) và các văn bản quy phạm pháp luật khác về ATTP.
SDG 8 toàn cầu là “Decent work and economic growth” (Việc làm tốt và tăng trưởng kinh tế), SDG 8 Việt Nam là “Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người”. SDG 8 đã được thể hiện trong các kế hoạch của chính phủ Việt Nam ở nhiều cấp độ. Các mục tiêu thành phần của SDG 8 chủ yếu liên quan đến tăng trưởng, năng suất và việc làm. Cũng như đối với SDG 1, tỷ lệ hài hòa khá cao của hệ thống TCVN về thực phẩm đã góp phần loại bỏ các hạn chế thương mại và các rào cản đối với thương mại thực phẩm, giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo thêm việc làm.
SDG 12 toàn cầu là “Responsible consumption and production” (Sản xuất và tiêu dùng có trách nhiệm), SDG 12 Việt Nam là “Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững”. Năm 2020, Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030. Một trong những mục tiêu thành phần của SDG 12 là "giảm một nửa lãng phí thực phẩm bình quân đầu người trên toàn cầu ở cấp độ bán lẻ và người tiêu dùng, giảm thất thoát thực phẩm dọc theo chuỗi sản xuất và cung ứng". Các TCVN về thực phẩm dựa trên các quy định về ghi nhãn thực phẩm trong tiêu chuẩn Codex của Ủy ban tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế (CAC), do đó đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy. SDG 12 cũng yêu cầu quản lý hợp lý đối với hóa chất. Hóa chất trong thực phẩm là mối quan tâm về sức khỏe trên toàn thế giới và là nguyên nhân hàng đầu gây trở ngại thương mại. Các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, ví dụ như các quy phạm thực hành vệ sinh như TCVN 10168:2013 (CAC/RCP 49-2001) Quy phạm thực hành về các biện pháp trực tiếp tại nguồn để giảm thiểu nhiễm bẩn hóa chất vào thực phẩm là rất đắc lực để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
SDG 17 toàn cầu là “Partnerships for the goals” (Quan hệ đối tác cho các SDG), SDG 17 Việt Nam là “Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững”. Việt Nam đã thúc đẩy các hệ thống thương mại đa phương và tăng cường quan hệ đối tác toàn cầu tương đối tốt. Quan hệ đối tác có nghĩa rằng làm việc cùng nhau sẽ đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau trong động lực đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững năm 2030. SDG 17 có mục tiêu 17.1 là xúc tiến hệ thống thương mại đa phương, cởi mở, không phân biệt đối xử, công bằng và dựa trên luật pháp quốc tế trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); các TCVN về thực phẩm, đặc biệt là các TCVN chấp nhận tiêu chuẩn Codex đáp ứng tốt mục tiêu này, vì các tiêu chuẩn Codex được coi là chuẩn mực khi giải quyết các tranh chấp thương mại của WTO. Bên cạnh đó, mục tiêu 17.2 về nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng trong xuất khẩu cũng được hỗ trợ rất tốt bởi các TCVN hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực.
Một trong những tiêu chuẩn phổ biến nhất về ATTP là TCVN ISO 22000:2018 (ISO 22000:2018) Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm – Yêu cầu đối với các tổ chức trong chuỗi thực phẩm. Tiêu chuẩn này gắn liền với các SDG số 2, 3, 12 và do là tiêu chuẩn hài hòa nên đã gián tiếp thực hiện các SDG số 1, 8 và 17.
Các tiêu chuẩn sản phẩm như TCVN 11888:2017 Gạo trắng và TCVN 11889:2017 Gạo thơm trắng đáp ứng SDG 2 về xóa đói, SDG 3 về an toàn sức khỏe nhưng vẫn thể hiện vị thế của nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới và đáp ứng các SDG khác.
Trong khi đó, bộ TCVN 13142:2020 (ISO 34101:2019) Cacao được sản xuất bền vững và có thể truy xuất nguồn gốc gồm bốn phần sẽ góp phần đáp ứng các SDG số 2, 8, 10, 12. Bộ tiêu chuẩn này quy định các yêu cầu đối với hệ thống quản lý trong canh tác hạt cacao, là bộ hướng dẫn về thực hành nông nghiệp lành mạnh với môi trường, tăng cường khả năng truy xuất nguồn gốc của hạt cacao và nhằm cải thiện điều kiện xã hội và sinh kế của người trồng và người chế biến cacao.
Bộ TCVN 11041 Nông nghiệp hữu cơ đáp ứng tốt SDG 2, cụ thể là mục tiêu 2.3 (đến năm 2030 sẽ tăng gấp 1,5 lần năng suất lao động trong nông nghiệp và thu nhập của lao động nông nghiệp) và mục tiêu 2.4 (đến năm 2030 sẽ bảo đảm sản xuất lương thực, thực phẩm bền vững và áp dụng những phương thức sản xuất nông nghiệp có khả năng chống chịu giúp tăng năng suất và sản lượng, duy trì hệ sinh thái, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và các thảm họa khác và dần dần cải tạo chất lượng đất đai). Các tiêu chuẩn này cũng đáp ứng SDG 3 về sức khỏe, đáp ứng SDG 12 về sản xuất và tiêu dùng bền vững, đáp ứng SDG 15 liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất. Phần 8 về tôm hữu cơ trong bộ TCVN 11041 cũng đáp ứng SDG 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển.
Như vậy hệ thống TCVN về thực phẩm cho đến nay đã hỗ trợ rất tốt cho việc đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc cũng như mục tiêu của Việt Nam.