Tọa đàm trực tuyến: "Năng suất chất lượng và hành trình Net Zero của doanh nghiệp Việt"
(CL&CS) - Chiều ngày 19/11/2025, Tạp chí Chất lượng Việt Nam (VietQ.vn) tổ chức chương trình Tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Năng suất chất lượng và hành trình Net Zero của doanh nghiệp Việt”.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng xanh và bền vững, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất chất lượng trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Chuyển đổi xanh không chỉ là câu chuyện của môi trường, mà còn là chiến lược nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia.
Để hành trình này thực sự hiệu quả, ba thành tố đóng vai trò then chốt đó là: Chính sách môi trường về phát triển bền vững - định hướng, tạo nền tảng pháp lý; Hệ thống tiêu chuẩn đo lường chất lượng - bảo đảm sự đồng bộ, minh bạch, khả năng đánh giá và hội nhập; Doanh nghiệp - chủ thể trực tiếp triển khai và tạo ra giá trị mới trong nền kinh tế xanh.
Nhằm làm rõ mối quan hệ giữa 3 trụ cột nêu trên dưới góc nhìn của cơ quan quản lý cũng như doanh nghiệp, đồng thời trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào để nâng cao năng suất chất lượng, thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh một cách thực chất và hiệu quả tại Việt Nam?, Tạp chí Chất lượng Việt Nam (VietQ.vn) tổ chức Tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Năng suất chất lượng và hành trình Net Zero của doanh nghiệp Việt”.
Chương trình có sự tham gia của 3 vị khách mời:
- PGS. TS Bùi Thị An - Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng;
- Ông Triệu Việt Phương - Viện trưởng Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam - Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia;
- Ông Trần Công Hòa, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Maihoa Group;
MC Hồng Vân dẫn chương trình.
Chương trình diễn ra vào lúc 13h ngày 19/11/2025, được cập nhật trực tuyến trên Tạp chí Điện tử Chất lượng Việt Nam (VietQ.vn) và các nền tảng mạng xã hội khác.
Kính mời quý độc giả quan tâm theo dõi!

Các khách mời tham gia chương trình tọa đàm do Chất lượng Việt Nam tổ chức
MC Hồng Vân: Câu hỏi đầu tiên xin được gửi tới PGS. TS Bùi Thị An! Thưa bà, trong bối cảnh Việt Nam theo đuổi mục tiêu Net Zero, theo bà, vì sao yếu tố “năng suất - chất lượng” lại phải được đặt ở trung tâm của chiến lược chuyển đổi xanh?
PGS. TS Bùi Thị An: Tôi cho rằng yếu tố năng suất chất lượng được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược chuyển đổi xanh là vấn đề cốt lõi và rất đúng đắn. Đây không còn là lựa chọn kỹ thuật mà muốn tăng trưởng xanh đồng thời giảm phát thải để đạt được mục tiêu Net Zero theo cam kết của Chính phủ ở Hội nghị COP26 thì không còn con đường nào khác ngoại trừ nâng cao năng suất chất lượng.
Cụ thể, trước đây, mô hình tăng trưởng của chúng ta chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và tận dụng lao động giá rẻ. Nhưng bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải chuyển đổi sang một mô hình phát triển mới - nơi tăng trưởng phải gắn với năng suất cao, sử dụng hiệu quả nguyên liệu và năng lượng, đồng thời dựa nhiều hơn vào tri thức và công nghệ. Chỉ trên nền tảng đó, quá trình phát triển mới thực sự được coi là tăng trưởng xanh.
Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, hàng hóa Việt Nam ngày càng vươn xa ra nhiều thị trường trên thế giới. Tuy nhiên, các thị trường nhập khẩu hiện nay đặt ra những yêu cầu rất khắt khe về sản xuất xanh, minh bạch và truy xuất nguồn gốc. Nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn này, chúng ta khó có thể mở rộng thị trường. Chính áp lực đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Và con đường duy nhất để đạt được điều này chính là tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ ba, nếu chúng ta không sản xuất xanh, phát triển xanh thì rất khó tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng xanh của quốc tế, trong khi đó các nguồn vốn này rất dồi dào dành cho các nước đang trong quá trình phát triển như Việt Nam.
Thứ tư, nếu chúng ta không nâng cao năng suất chất lượng thì rất khó đạt được mục tiêu tăng trưởng 2 con số theo Quốc hội đặt ra trong thời gian tới.
Một lần nữa tôi xin khẳng định rằng năng suất chất lượng được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược chuyển đổi xanh là lựa chọn đúng tầm và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn hiện nay.
MC Hồng Vân: Để hỗ trợ thực thi các mục tiêu phát thải thấp, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cần ưu tiên hoàn thiện những nhóm tiêu chuẩn nào nhằm đảm bảo năng suất xanh và chất lượng xanh, thưa ông Triệu Việt Phương?
Ông Triệu Việt Phương: Chúng ta cần xác định rằng việc đảm bảo năng suất xanh và chất lượng xanh là mục tiêu rõ ràng để hướng tới phát triển bền vững. Tiêu chuẩn là một trong những công cụ quan trọng đóng góp vào tiến trình này.
Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia của chúng ta hiện tại có trên 14 nghìn tiêu chuẩn. Hòa chung với xu hướng tiêu chuẩn hóa toàn cầu, hướng đến phát triển bền vững và phát triển xanh, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cần phải rà soát, hoàn thiện và hướng đến những nhóm tiêu chuẩn phục vụ mục tiêu này.

Ông Triệu Việt Phương - Viện trưởng Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam
Để hỗ trợ thực thi các mục tiêu phát thải thấp, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia đang tập trung ưu tiên hoàn thiện và phát triển các nhóm tiêu chuẩn nhằm đảm bảo năng suất xanh và chất lượng xanh trong các lĩnh vực trọng điểm sau:
Thứ nhất, nhóm tiêu chuẩn về năng lượng xanh và tích hợp hệ thống. Bao gồm các tiêu chuẩn cho điện mặt trời, điện gió, sinh khối, hydrogen xanh; tiêu chuẩn an toàn – hiệu suất cho hệ thống lưu trữ năng lượng và các yêu cầu kết nối lưới điện thông minh. Những tiêu chuẩn này tạo nền tảng để doanh nghiệp tiếp cận nguồn năng lượng sạch, ổn định và an toàn.
Thứ hai, nhóm tiêu chuẩn sản phẩm xanh và vật liệu bền vững. Đây là nhóm tiêu chuẩn then chốt trong thúc đẩy tiêu dùng bền vững: tiêu chuẩn vật liệu tái chế, vật liệu sinh học phân hủy, sản phẩm phát thải thấp; bộ tiêu chí nhãn sinh thái và phương pháp luận đánh giá vòng đời sản phẩm (LCA). Đặc biệt, LCA giúp doanh nghiệp nhận diện tác động môi trường của từng công đoạn và cải thiện theo hướng tiết kiệm tài nguyên, góp phần giảm phát thải.
Thứ ba, nhóm tiêu chuẩn về quy trình sản xuất sạch hơn và kinh tế tuần hoàn. Bao gồm các tiêu chuẩn về quản lý chất thải, thiết kế dễ tái chế, tái sử dụng vật liệu, giảm phát thải trong toàn bộ chuỗi giá trị. Với các ngành phát thải cao như xi măng, sắt thép, hóa chất, dệt may, đây chính là công cụ để doanh nghiệp rút ngắn khoảng cách công nghệ và đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế.
Thứ tư, nhóm tiêu chuẩn về đo lường – báo cáo – thẩm định phát thải (MRV) và quản lý carbon. MRV là điều kiện tiên quyết để triển khai thị trường carbon, đáp ứng các cơ chế quốc tế như CBAM. Một hệ thống MRV chuẩn hóa giúp đo lường phát thải chính xác, minh bạch, từ đó doanh nghiệp xác định cơ hội giảm phát thải và tối ưu chi phí.
Bên cạnh đó, nhóm tiêu chuẩn hệ thống quản lý như ISO 50001, ISO 14001 và tiêu chuẩn liên quan ESG cũng là trụ cột giúp doanh nghiệp vận hành theo hướng bền vững.
MC Hồng Vân: Câu hỏi tiếp theo xin dành cho ông Trần Công Hoà! Thưa ông, khi thực thi chuyển đổi xanh doanh nghiệp thường gặp bài toán chi phí, công nghệ và tiêu chuẩn. Theo ông, điểm nghẽn lớn nhất ảnh hưởng đến năng suất của doanh nghiệp là gì?
Ông Trần Công Hoà: Khi nhắc đến chuyển đổi xanh, nhiều người thường nghĩ ngay đến chi phí, công nghệ hay tiêu chuẩn. Tuy nhiên, theo tôi, điểm nghẽn lớn nhất không nằm ở những yếu tố đó. Thực tế, trong hơn hai thập kỷ điều hành doanh nghiệp, tôi nhận thấy điểm nghẽn cốt lõi lại chính là tư duy và mô hình vận hành đã cũ, không kịp thích ứng với yêu cầu mới của thời đại. Công nghệ có thể mua, tiêu chuẩn có thể học và chi phí hoàn toàn có thể tối ưu theo từng giai đoạn, nhưng tư duy “làm như cũ” – đặc biệt ở cấp lãnh đạo và đội ngũ quản lý trung gian mới là rào cản khiến doanh nghiệp khó cải thiện năng suất khi bước vào chuyển đổi xanh.
Biểu hiện của điểm nghẽn này thể hiện rõ ở việc nhiều doanh nghiệp không dám thay đổi quy trình và mô hình sản xuất, vẫn duy trì cách làm cũ dù môi trường kinh doanh đã thay đổi mạnh mẽ. Bên cạnh đó, không ít đơn vị chưa đo lường được giá trị kinh tế mà chuyển đổi xanh mang lại, nên coi đây là chi phí thay vì một khoản đầu tư cho lợi ích dài hạn. Một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng là sự thiếu đồng bộ giữa các bộ phận, khiến việc phối hợp trở nên rời rạc, làm tăng chi phí vô hình và kéo giảm hiệu quả tổng thể.
Có thể nói, năng suất không giảm vì chuyển đổi xanh; năng suất giảm vì doanh nghiệp thay đổi mục tiêu nhưng lại không thay đổi tư duy và cách vận hành. Khi tư duy được đổi mới, chi phí sẽ tự khắc giảm đi, công nghệ sẽ tìm được điểm phù hợp, tiêu chuẩn sẽ được đáp ứng và năng suất chắc chắn sẽ tăng. Đó mới là cốt lõi của chuyển đổi xanh.

Doanh nghiệp hướng đến chuyển đổi xanh, nâng cao năng suất chất lượng
Theo PGS. TS Bùi Thị An, sự phối hợp giữa ba trụ cột: chính sách – tiêu chuẩn – doanh nghiệp hiện nay đang thiếu điều gì để tạo nên một hệ sinh thái hỗ trợ nâng cao năng suất xanh thực sự hiệu quả?
PGS. TS Bùi Thị An: Trong giai đoạn phát triển hiện đại của kinh tế thị trường, các tiêu chuẩn đã bắt đầu đáp ứng được một phần nhu cầu phát triển. Tuy nhiên, một trong những vấn đề nghẽn đầu tiên được nhận thấy là sự liên kết lỏng lẻo giữa chính sách, tiêu chuẩn và doanh nghiệp.
Về mặt chính sách, mặc dù hiện tại đã có khá nhiều luật và quy định được xây dựng, nhưng chính sách này mới chỉ mang tính chất dẫn dắt, chứ chưa mang tính yêu cầu bắt buộc. Ví dụ, trong sản xuất xanh, dù các tình huống đặt ra là đúng đắn, nhưng chưa yêu cầu dứt khoát doanh nghiệp phải sản xuất theo quy trình xanh. Do đó, chính sách chỉ mới dừng lại ở mức độ khuyến khích chứ chưa thể tạo ra sự thay đổi toàn diện.
Mặc dù tiêu chuẩn Việt Nam được đánh giá là đã tiến xa so với trước đây,, nhưng một số tiêu chuẩn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Hiện nay, khi xuất khẩu sang các thị trường lớn như EU, Mỹ, hay Nhật Bản, các thị trường này đều có những yêu cầu và tiêu chuẩn riêng rất cao, liên quan đến truy xuất nguồn gốc, sử dụng năng lượng sạch, và nguồn gốc xanh.
Do đó, Nhà nước cần phải đầu tư để xây dựng các tiêu chuẩn phù hợp với cấp độ quốc tế. Nếu không có các tiêu chuẩn ngang bằng, hàng hóa Việt Nam sẽ khó cạnh tranh và khó được gửi đi. Điều này liên quan đến đẳng cấp quốc tế của tiêu chuẩn Việt Nam. Mặc dù tiêu chuẩn đã tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều tiêu chuẩn ở mức độ rất thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

PGS. TS Bùi Thị An - Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng
Vấn đề quy mô doanh nghiệp: Cần thiết phải nâng quy mô doanh nghiệp. Tuy nhiên, năng lực của doanh nghiệp còn hạn chế, vì 90% doanh nghiệp hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô và vốn nhỏ khiến việc nhập khẩu thiết bị trở nên khó khăn.
Vấn đề nhận thức: Chúng ta chưa giúp doanh nghiệp nhận thức rõ trách nhiệm của họ trong việc sản xuất xanh và xây dựng quy trình xanh là điều kiện để họ tồn tại. Doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được rõ trách nhiệm của họ là gì và lợi ích của họ như thế nào trong phát triển xanh.
Vấn đề nhân lực: Ngoài vấn đề vốn, năng lực nhân lực của doanh nghiệp, đặc biệt là nhân lực xanh, cũng là một thách thức rất lớn.
Các vấn đề nghẽn trong phát triển xanh và tiêu chuẩn Việt Nam đòi hỏi những giải pháp đồng bộ và quyết liệt, bắt đầu từ việc điều chỉnh cơ chế chính sách. Nhà nước cần phải chuyển từ chính sách mang tính chất dẫn dắt sang hướng dẫn cụ thể và yêu cầu rõ ràng, làm rõ trách nhiệm cũng như quyền lợi của doanh nghiệp là gì khi tham gia vào phát triển xanh. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp nhận thức được rằng sản xuất xanh và xây dựng quy trình xanh là điều kiện để họ tồn tại và phát triển. Một giải pháp căn cơ khác là Nhà nước cần đầu tư để xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cao, phù hợp với cấp độ quốc tế, nhằm nâng cao đẳng cấp quốc tế của tiêu chuẩn Việt Nam để đáp ứng được các yêu cầu khắt khe từ các thị trường xuất khẩu lớn như EU, Mỹ, và Nhật Bản.
Để tăng cường hiệu quả triển khai, cần phải kết hợp và liên kết rõ ràng giữa các bên, đặc biệt là tăng cường liên kết chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, trường học, Nhà nước và doanh nghiệp, nhằm loại bỏ các khâu trung gian và nâng cao tính hiệu quả. Ngoài ra, trước khi áp dụng các công nghệ lớn hoặc công nghiệp cụ thể, cần thiết phải có giai đoạn thử nghiệm và xây dựng các mô hình nhỏ (như các buổi hội thảo hoặc dự án thí điểm) để đảm bảo tính khả thi.
Tóm lại, việc giải quyết các điểm nghẽn này là trách nhiệm chung của những người làm chính sách, những người làm doanh nghiệp, và những người xây dựng tiêu chuẩn, và chỉ khi có sự kết hợp hài hòa này thì hiệu quả mới được nâng cao đáng kể.
MC Hồng Vân: Thưa ông Triệu Việt Phương, các tiêu chuẩn về carbon, đo lường phát thải, công trình xanh, sản phẩm xanh… đang ngày càng được doanh nghiệp quan tâm. Ông đánh giá bước tiến nào sẽ tác động mạnh nhất tới việc nâng cao năng suất ngành và doanh nghiệp?
Ông Triệu Việt Phương: Rõ ràng chúng ta đều nhận thức được vai trò của tiêu chuẩn ngày càng quan trọng không chỉ trong lĩnh vực năng suất xanh mà trong toàn bộ đời sống kinh tế xã hội và việc tiếp cận tiêu chuẩn bây giờ cũng theo hướng toàn diện và hướng đến doanh nghiệp.
Khi xây dựng tiêu chuẩn các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường được chúng tôi xem xét để đảm bảo sự phát triển bền vững, tối ưu hóa hoạt động và giảm thiểu tác động tiêu cực. Đồng thời hướng đến nâng tỷ lệ hài hòa với quốc tế - đây cũng là một mục tiêu trong thời gian tới.
Trở lại câu hỏi vừa nêu, tôi nhận thấy rằng một số bước tiến tác động mạnh mẽ đến năng suất ngành và doanh nghiệp trong thời gian tới. Theo tôi, có ba bước tiến có tác động mạnh mẽ nhất đến năng suất ngành và doanh nghiệp:
Một là, hoàn thiện hệ thống đo lường – báo cáo – thẩm định phát thải (MRV). MRV giúp doanh nghiệp hiểu rõ mức phát thải của chính mình, xác định “điểm nóng” tiêu hao năng lượng và từ đó tối ưu quy trình sản xuất. Khi dữ liệu chính xác có thể đo lường được, doanh nghiệp sẽ có cơ sở để triển khai các giải pháp hiệu quả chi phí.
Hai là, áp dụng các chuẩn mực về thiết kế và sản xuất theo vòng đời (LCA, eco-design), theo cách tiếp cận mới thông qua: nhà nước, doanh nghiệp, cơ quan chuyên môn. Đây là xu hướng toàn cầu: giảm tiêu hao nguyên liệu, kéo dài tuổi thọ sản phẩm, khai thác hiệu quả năng lượng và giảm chất thải cuối vòng đời. Các doanh nghiệp áp dụng LCA thường tiết giảm được từ nhiều chi phí nguyên liệu trong vài năm.
Ba là, kết hợp tiêu chuẩn hệ thống quản lý với chuyển đổi số được nhắc đến rất nhiều. Tiêu chuẩn khi kết hợp với chuyển đổi số sẽ có hệ thống dữ liệu đầy đủ, có thể giám sát các hoạt động chính xác. Hệ thống quản lý năng lượng, quản lý môi trường khi được tích hợp với công nghệ số giúp doanh nghiệp giám sát năng lượng theo thời gian thực, đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu và tự động hoá quy trình. Điều này tạo ra mức tăng năng suất rõ rệt. Nhìn chung, tiêu chuẩn hóa kết hợp chuyển đổi số sẽ tạo ra “hiệu quả kép”: tăng năng suất – giảm phát thải.
MC Hồng Vân: Được biết, Maihoa Group là một trong những doanh nghiệp tiên phong sản xuất các sản phẩm từ nguyên liệu kháng khuẩn, khử mùi, làm sạch không khí. Ông có thể chia sẻ về mô hình, sáng kiến thực tế mà doanh nghiệp ông đã triển khai thành công, giúp vừa tăng năng suất vừa giảm phát thải?
Ông Trần Công Hòa: Tại Việt Nam, tình trạng ô nhiễm không khí đang trở thành một vấn đề cấp bách. Nhiều thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh hay các khu công nghiệp đều phải đối mặt với mức bụi mịn PM2.5 vượt ngưỡng cho phép, cùng với khí thải từ giao thông, sản xuất và sinh hoạt, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng. Thực trạng này không chỉ làm gia tăng các bệnh hô hấp, mà còn kéo theo chi phí y tế và giảm năng suất lao động. Xuất phát từ thực tế đó, MaiHoa Group (MHG) đã tiên phong đưa ra các giải pháp xanh, thân thiện môi trường.

Ông Trần Công Hòa, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Maihoa Group
Chúng tôi theo đuổi mô hình “giải pháp xanh không điện” dựa trên công nghệ Nano Airpurity – sáng kiến hợp tác nghiên cứu và phát triển cùng đối tác Nhật Bản. Công nghệ này cho phép chuyển hóa nguyên liệu xanh thành các sản phẩm ứng dụng trực tiếp trong đời sống, như tranh, ảnh hay các sản phẩm trang trí làm từ giấy vải ứng dụng Nano Airpurity. Những sản phẩm này có khả năng kháng khuẩn, khử mùi và giảm ô nhiễm không khí trong nhà và các không gian đông người, hoạt động hiệu quả liên tục tới 10 năm mà không cần bất kỳ nguồn điện nào.
Việc loại bỏ hoàn toàn năng lượng vận hành giúp sản phẩm cắt giảm đáng kể phát thải, đồng thời giảm chi phí vòng đời cho khách hàng. Song song với đó, MHG triển khai mô hình sản xuất tinh gọn, tự động hóa, kết hợp sử dụng vải không dệt thân thiện môi trường, nâng cao năng suất, đồng nhất chất lượng và giảm hao hụt nguyên liệu.
Bên cạnh việc sản xuất, MHG còn tích cực hợp tác với các Bộ, Ngành và đơn vị địa phương để lan tỏa giá trị tốt đẹp đến cộng đồng. Chúng tôi đã phối hợp triển khai chương trình giáo dục môi trường cho học sinh, sinh viên, hỗ trợ bệnh viện và trung tâm cộng đồng trang bị sản phẩm làm sạch không khí, đồng thời tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức về lối sống xanh và bảo vệ môi trường. Những hoạt động này không chỉ bảo vệ sức khỏe cộng đồng, mà còn khẳng định cam kết của MHG trong việc xây dựng hệ sinh thái sản xuất xanh, bền vững và trở thành thương hiệu tiên phong lan tỏa ý thức bảo vệ môi trường tại Việt Nam.
MC Hồng Vân: Chương trình năng suất chất lượng quốc gia giai đoạn mới tập trung vào những nội dung nào để hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi xanh, hướng tới mục tiêu Net Zero? Theo ông, doanh nghiệp cần bước đi cụ thể nào để vừa nâng cao năng suất, vừa đi đúng lộ trình?
Ông Triệu Việt Phương: Chương trình năng suất chất lượng quốc gia thời gian tới nên tập trung vào các nội dung trọng tâm:
(1) Tiếp tục hỗ trợ áp dụng các hệ thống quản lý xanh như ISO 50001, ISO 14001 và bộ công cụ cải tiến năng suất đặc thù theo ngành.
(2) Xây dựng tiêu chuẩn cho sản xuất sạch hơn, kinh tế tuần hoàn, vật liệu tái chế, chuỗi cung ứng xanh và hoàn thiện khung MRV doanh nghiệp.
(3) Thúc đẩy chuyển đổi số trong sản xuất, đặc biệt là các hệ thống giám sát năng lượng, theo dõi chất lượng và phân tích dữ liệu.
(4) Hỗ trợ chứng nhận, nhãn sinh thái, truy xuất nguồn gốc để doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu thị trường EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản.
(5) Xây dựng mô hình điểm, hỗ trợ kỹ thuật – tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, sau đó nhân rộng.
Doanh nghiệp muốn nâng cao năng suất và đi đúng lộ trình Net Zero cần thực hiện sáu bước: (i) đánh giá hiện trạng năng lượng – chất lượng – phát thải; (ii) xây dựng lộ trình năng suất xanh theo giai đoạn; (iii) ưu tiên giải pháp tiết kiệm năng lượng có hiệu quả kinh tế cao; (iv) áp dụng tiêu chuẩn và chứng nhận; (v) số hoá quá trình giám sát năng lượng – phát thải (MRV nội bộ); (vi) tăng cường đào tạo và hợp tác trong chuỗi cung ứng.
Nếu làm tốt, chuyển đổi xanh sẽ trở thành động lực nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh và giá trị doanh nghiệp.
MC Hồng Vân: Để nâng cao chất lượng phát triển xanh, theo PGS. TS Bùi Thị An, truyền thông – giáo dục cần thay đổi theo hướng nào để cả doanh nghiệp và cộng đồng đều hiểu đúng, làm đúng?
PGS. TS Bùi Thị An: Trước khi trả lời câu hỏi này, tôi muốn bổ sung ý của ông Triệu Việt Phương: Chúng ta cần phải có tiêu chuẩn, cần phải xác định cho minh bạch và công bằng.
Tôi kiến nghị Nhà nước phải có đầu tư cho toàn bộ hệ thống giám sát, đo lường các phát thải hay những vấn đề liên quan đến phát triển xanh thật hiện đại, thật chuẩn xác. Bởi vì, bản thân doanh nghiệp vừa và nhỏ không có điều kiện để tự đầu tư các hệ thống này. Nếu chúng ta không công bằng trong đánh giá thì mọi thứ sẽ rất khó khăn, bởi vì đây là vấn đề rất quan trọng trong xu hướng phát triển bền vững của đất nước. Cần phải có thiết bị đo lường chuẩn xác phát thải. Tôi nghĩ rằng mọi thứ phải chuẩn xác trong khoa học. Hơn nữa, nó phải minh bạch và công khai trong phương thức. Để tất cả các doanh nghiệp có thể được hưởng thụ những thành quả đó, và khi doanh nghiệp thấy công bằng thì họ sẽ tham gia.
"Giai đoạn vừa rồi, tôi thấy truyền thông rất có giá trị trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững của Việt Nam. Tất cả các chủ trương, chính sách đều đến được với người dân, kể cả đối với cấp quản lý, doanh nghiệp. Tôi cho rằng truyền thông là tiếng nói chung, tiếng nói thấu hiểu, tuy nhiên vẫn cần có sự định hướng đúng mục đích, có như vậy truyền thông mới có tác dụng". - PGS. TS Bùi Thị An chia sẻ.
Về truyền thông, theo kinh nghiệm của tôi, tôi nghĩ rằng truyền thông phải có tương tác. Có nghĩa là cùng nhau kiến tạo. Chúng ta cùng trao đổi, cùng có thể phản hồi lại, chứ không phải là truyền thông một chiều. Trước đây có những xu hướng đôi khi ta hơi áp đặt, ta cứ truyền thông và cứ nói, nói, ai nghe đến đâu thì nghe. Nhưng bây giờ thì không có nữa. Các đối tượng chúng ta muốn truyền thông đều cần được tham gia đối thoại. Rõ ràng là doanh nghiệp cũng cần được cùng đối thoại khi làm chính sách, cần được cùng tham gia, và đến khi truyền thông doanh nghiệp cũng cần tham gia.
Tôi muốn nhấn mạnh: Chúng ta phải có sự trao đổi, có đối thoại, và chúng ta đồng kiến tạo với nhau.
Thứ hai, truyền thông phải theo đúng đối tượng. Trong trường hợp phát triển xanh, tôi nghĩ có nhiều đối tượng: 1. Đối với cấp nhà nước/Cấp quản lý: Cần xác định nội dung chính sách phải như thế nào, nó phải phù hợp với thực tế bao nhiêu. 2. Doanh nghiệp: Họ cần hiểu trách nhiệm của họ là gì, quy trình như thế nào. Ví dụ, truyền thông về quản trị xanh. Quản trị xanh không phải đơn giản như quản trị ngày xưa. Quản trị xanh phải hiệu quả cho năng suất, quản trị năng lượng, và quản trị nguồn gốc. 3. Cộng đồng: Đối với cộng đồng thì lại khác. Cần phải để cho họ hiểu một cách cụ thể, thực tế bằng hành động.
Tóm lại, truyền thông bây giờ phải thực tế, phải phù hợp, và phải mang tính chất bình đẳng. Nếu tôi là đối tượng được thụ hưởng thì tôi cũng cần tham gia vào quá trình để thấy chính sách có khả thi. Truyền thông bây giờ không phải là áp đặt mà là trao đổi đa chiều.

Doanh nghiệp đổi mới quy trình sản xuất, đổi mới công nghệ về lâu dài năng suất tăng lên.
MC Hồng Vân: Tiêu chuẩn môi trường nếu chỉ khuyến khích sẽ khó tạo tác động mạnh. Có nên áp dụng bắt buộc với một số ngành/lĩnh vực? Điều này sẽ thúc đẩy hay gây áp lực cho doanh nghiệp trong quá trình nâng cao năng suất? câu hỏi này trước hết dành cho ông Triệu Việt Phương.
Ông Triệu Việt Phương: Như chúng ta đều biết việc áp dụng tiêu chuẩn mang tính tự nguyện. Tuy nhiên trên thực tế, rất nhiều tiêu chuẩn môi trường được viện dẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật trở thành bắt buộc áp dụng. Khi được viện dẫn trong văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn lúc này sẽ trở thành bắt buộc áp dụng.
"Có thể hiểu rằng, tác động của việc áp dụng bắt buộc là tích cực về dài hạn, khi doanh nghiệp có sự nghiên cứu, đổi mới quản trị, đổi mới về quy trình sản xuất, đổi mới về công nghệ ban đầu có thể gặp khó khăn về chi phí, tuy nhiên về lâu dài thì khi công nghệ cao lên, năng suất tăng lên, tính tổng ra thì chi phí lại rất hợp lý, các doanh nghiệp có thể loại bỏ công nghệ lạc hậu, giảm chi phí rủi ro và cải thiện hình ảnh thương hiệu. Ví dụ, một doanh nghiệp tuân thủ các yêu cầu về môi trường, bảo vệ môi trường, cũng là một trong những điểm cộng khi họ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu hay tham gia vào các thị trường đòi hỏi tính minh bạch và tính tuân thủ cao về vấn đề môi trường. Tuy nhiên, quan trọng là chúng ta vẫn cần chính sách hỗ trợ của nhà nước để giảm áp lực ngắn hạn, đảm bảo tính đồng bộ". - Ông Triệu Việt Phương cho biết.
Chính vì vậy, tôi cho rằng cần cân bằng giữa bắt buộc và khuyến khích, dựa trên đặc thù ngành và mức độ tác động môi trường:
Một số nhóm tiêu chuẩn nên áp dụng bắt buộc, đặc biệt với các ngành có rủi ro cao như hóa chất, chất thải, sản xuất công nghiệp quy mô lớn như xi măng, sắt thép. Những tiêu chuẩn tối thiểu về an toàn môi trường, kiểm soát phát thải cần được yêu cầu bắt buộc để bảo vệ cộng đồng và tạo “sân chơi bình đẳng” giữa các doanh nghiệp và đó là trách nhiệm chung. Kể cả những doanh nghiệp FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) hay là những doanh nghiệp trong nước cũng đều phải tuân thủ cuộc chơi, và giữ gìn môi trường.
Tuy nhiên, các tiêu chuẩn nâng cao như nhãn sinh thái, đánh giá vòng đời, tín chỉ carbon nên được triển khai theo lộ trình, kết hợp hỗ trợ chính sách nhà nước tài chính, kỹ thuật, đào tạo. Khi có lộ trình áp dụng này kết hợp với sự hỗ trợ về mặt chính sách của Nhà nước thì giúp cho doanh nghiệp giảm bớt áp lực và tăng tính thực thi hiệu quả. Rõ ràng là khi tiêu chuẩn về môi trường được áp dụng một cách bắt buộc thì nó cũng có những tích cực về mặt dài hạn.
MC Hồng Vân: Cũng câu hỏi này, xin mời ông Trần Công Hoà!
Theo tôi, khi tiêu chuẩn môi trường chỉ dừng lại ở mức khuyến khích thì rất khó tạo ra chuyển biến thực chất. Với những ngành có mức phát thải cao hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, việc áp dụng tiêu chuẩn bắt buộc là điều cần thiết. Tuy nhiên, điểm mấu chốt không nằm ở việc “ép doanh nghiệp”, mà ở chỗ tạo dựng một sân chơi minh bạch để tất cả cùng tiến lên theo cùng một lộ trình.
Nếu tiêu chuẩn được thiết kế hợp lý, có lộ trình rõ ràng và đi kèm cơ chế hỗ trợ phù hợp, doanh nghiệp không những không bị tạo áp lực mà còn được thúc đẩy đổi mới công nghệ, tối ưu quy trình và nâng cao năng suất bền vững hơn. Có thể nói, chuyển đổi xanh không phải gánh nặng; nếu làm đúng, nó trở thành động lực cạnh tranh mới giúp doanh nghiệp Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Về định hướng tương lai, MaiHoa Group xác định trách nhiệm của mình không chỉ là tuân thủ các tiêu chuẩn hiện hành mà còn tiên phong trong việc đóng góp cho mục tiêu NetZero của Chính phủ. Chúng tôi đang xây dựng các chương trình chuyển đổi năng lượng xanh, tối ưu hóa chuỗi sản xuất, giảm phát thải và tăng cường sử dụng nguyên vật liệu tái chế. Đồng thời, MHG sẽ chủ động chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất giải pháp kỹ thuật và chính sách hỗ trợ để giúp các doanh nghiệp khác cùng nâng cao năng lực, tạo ra tác động lan tỏa trong toàn ngành. Chúng tôi tin rằng, chỉ khi doanh nghiệp và Nhà nước đồng hành, mục tiêu phát triển bền vững mới thực sự khả thi, vừa bảo vệ môi trường, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
MC Hồng Vân: Qua những trao đổi sâu sắc từ ba vị khách mời, chúng ta có thể thấy rõ rằng năng suất và chất lượng chính là “hạ tầng mềm” quan trọng nhất trong tiến trình chuyển đổi xanh. Chỉ khi doanh nghiệp được hỗ trợ bằng hệ thống tiêu chuẩn đầy đủ, cơ chế chính sách đồng bộ và nguồn lực triển khai phù hợp, quá trình xanh hóa mới trở thành động lực thực sự cho tăng trưởng, thay vì gánh nặng tuân thủ. Từ trung ương tới doanh nghiệp, từ tiêu chuẩn kỹ thuật đến nhận thức cộng đồng – tất cả đều phải đồng hành để hình thành một hệ sinh thái phát triển xanh bền vững. Đây chính là con đường giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư chất lượng cao và tiến tới mục tiêu Net Zero trong tương lai.
Một lần nữa, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự tham gia của các vị khách mời; sự chú ý theo dõi của Quý vị khán giả!
Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại!
Theo VietQ.vn
- ▪Tiêu chuẩn giúp nâng cao năng suất và chất lượng, tạo đà cho doanh nghiệp thủy sản vươn xa
- ▪Sáu chiếc mũ tư duy: Bộ công cụ mềm giúp ngành điện tử, điện lạnh bứt tốc năng suất và chất lượng
- ▪Công cụ kiểm soát trước giúp doanh nghiệp nhựa nâng cao năng suất và giảm rủi ro
- ▪Tiêu chuẩn giúp nâng cao năng suất và chất lượng, tạo đà cho doanh nghiệp thủy sản vươn xa
Bình luận
Nổi bật
Tọa đàm trực tuyến: 'Năng suất chất lượng và hành trình Net Zero của doanh nghiệp Việt'
sự kiện🞄Thứ năm, 20/11/2025, 20:35
(CL&CS) - Chiều ngày 19/11/2025, Tạp chí Chất lượng Việt Nam (VietQ.vn) tổ chức chương trình Tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Năng suất chất lượng và hành trình Net Zero của doanh nghiệp Việt”.
Biểu đồ hình tròn: Công cụ trực quan giúp doanh nghiệp thủy sản nâng tầm năng suất bền vững
sự kiện🞄Thứ năm, 20/11/2025, 06:48
(CL&CS) - Trong ngành xuất khẩu thủy sản, nơi chỉ một biến động nhỏ về hao hụt hay lỗi cảm quan cũng có thể làm giảm mạnh lợi nhuận, việc kiểm soát tỷ lệ và nguyên nhân sai lỗi là sự sống còn. Biểu đồ hình tròn, dù đơn giản, lại giúp doanh nghiệp nhìn rõ trọng tâm vấn đề và tối ưu nguồn lực. Nhờ sự trực quan, công cụ này trở thành nền tảng quan trọng cho mục tiêu năng suất bền vững.
Đà Nẵng nâng cao nghiệp vụ kiểm tra nhà nước về đo lường cho cán bộ cơ sở
sự kiện🞄Thứ ba, 11/11/2025, 13:38
(CL&CS)- Khóa đào tạo tập trung vào các chuyên đề nghiệp vụ cốt lõi như quy định pháp luật và thẩm quyền trong hoạt động kiểm tra nhà nước về đo lường, kỹ năng và quy trình thực hiện kiểm tra tại cơ sở.








anh đứcLorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipisicing elit. Quis cum, ut esse cupiditate autem. Dolor est dolorem sunt, sequi omnis corporis cumque ratione accusamus ex deserunt, molestiae consequuntur natus beatae.