Nhưng nhờ đà tăng trong nửa đầu năm nên lũy kế 9 tháng xuất khẩu giày dép, túi xách vẫn có tăng trưởng dương. Theo đó, tính chung 9 tháng xuất khẩu giày dép đạt hơn 13,3 tỷ USD, tăng gần 10% so với cùng kỳ 2020, còn túi xách đạt kim ngạch gần 2,24 tỷ USD, giảm 3,7%.
5 thị trường lớn nhất của Việt Nam gồm: Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc chiếm 81,2%, trong đó giày dép chiếm 80,8% và túi xách chiếm 82,8%.
Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất với giày dép, chiếm tỷ trọng 41,0%, túi xách chiếm 44,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam.
Tiếp theo là EU chiếm thị phần 22,9% về giày dép và 22,1% về túi xách. Các thị trường khác là Trung Quốc (9,3% và 4,3%); Nhật Bản (4,7% và 8,6%) và Hàn Quốc (2,9 và 3,7%).
Các khối thị trường CPTPP, EVFTA, UKVFTA vẫn tăng trưởng lần lượt 8,7%, 4,6%, 5,2%. Khu vực ASEAN và EAEU giảm -7,1% và -5,3%.
Theo Lefaso, nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng kim ngạch là do đầu tháng 5/2021 đến nay, dịch Covid-19 bùng phát trở lại và diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương trên cả nước, nhất tại các tỉnh phía Nam.
Việc thực hiện giãn cách xã hội kéo dài hơn 3 tháng theo chỉ thị 16 của Chính phủ đã khiến 80% các nhà máy sản xuất da giày tại TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Tiền Giang… là những địa phương tập trung nhiều doanh nghiệp da giày lớn trong các khu công nghiệp, chiếm 70% sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của ngành, phải đóng cửa do không đủ điều kiện thực hiện quy chế “3 tại chỗ” và “một cung đường, hai điểm đến”.
Tại các địa phương miền Trung và miền Bắc, các doanh nghiệp da giày hoạt động với công suất 50 - 80 %, do phải giãn cách xã hội và thiếu lao động.
Tại các doanh nghiệp còn hoạt động, sản xuất cũng bị suy giảm do người lao động phải làm việc giãn cách, đồng thời phát sinh nhiều chi phí do đứt gẫy chuỗi cung nguyên phụ liệu, chi phí phòng chống Covid-19 (xét nghiệm, tiêm chủng, lo ăn, ở 3 tại chỗ cho người lao động). Các doanh nghiệp da giày bị thiệt hại lớn do phải ngừng/giảm sản xuất, bị khách hàng hủy đơn hàng xuất khẩu, trong khi vẫn phải chịu các chi phí duy trì nhà máy, trả lương cho người lao động.
Tình trạng thiếu container rỗng, chi phí logistics và vận chuyển tàu biển quốc tế tăng cao (gấp 5-10 lần) xảy ra từ năm 2020 chưa trở về bình thường, cùng với chi phí nhiên liệu và giá nguyên phụ liệu nhập khẩu tăng cao đã ảnh hưởng nhiều tới sản xuất, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Theo Lefaso, trong thời gian qua Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và gỡ bỏ những quy định cản trở sản xuất, vận chuyển hàng hóa. Tuy nhiên, do các quy định còn chặt chẽ về điều kiện được thụ hưởng và thủ tục hành chính phiền phức, đã khiến doanh nghiệp khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ này.
Cũng theo Lefaso, từ cuối tháng 9/2021 tình hình dịch bệnh có cải thiện, nhưng việc phục hồi sản xuất trong điều kiện “bình thường mới” trên tinh thần sống chung với dịch bệnh sẽ phải mất nhiều tháng mới có thể trở lại mức trước khi xảy ra dịch bệnh. Nhiều lao động bỏ về quê tránh lay lan dịch bệnh, khó khăn trong việc đi lại, di chuyển giữa các địa phương do phong tỏa, giãn cách xã hội, nên các doanh nghiệp thiếu lao động trầm trọng.
“Vì vậy doanh nghiệp cần tiết giảm chi phí, tận dụng các chính sách hỗ trợ của nhà nước, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tinh thần cho các lao động trở lại làm việc trên cơ sở tuân thủ các quy định về an toàn dịch bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y tế, và đặc biệt là tận dụng tốt các ưu đãi từ các hiệp định FTA (nhất là hiệp định CPTPP và EVFTA) để đẩy mạnh xuất khẩu trong các tháng cuối năm 2021”, Lefaso nêu ý kiến.