Sửa đổi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật: Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng

(CL&CS) - Tại Phiên họp thứ 36 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhiều thành viên Ủy ban cho rằng, việc sửa đổi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm giảm thiểu tốn kém về kinh phí và áp dụng hiệu quả trong thực tế và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng.

Lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được nâng lên cả chất và lượng

Thực hiện Phiên họp thứ 36, sáng 20/8, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, qua thực tiễn hơn 17 năm thi hành, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đã đưa hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được nâng lên cả chất và lượng; phân công thẩm quyền, trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức minh bạch, phù hợp với quy định của WTO và thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất chất lượng, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa chủ lực của Việt Nam.

Toàn cảnh Phiên thảo luận

Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản, nghị quyết chỉ đạo thể chế hóa chủ trương đổi mới đối với lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Đồng thời, thực tiễn thi hành thời gian qua cho thấy, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đã phát sinh một số hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải sửa đổi để phù hợp với các cam kết trong Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, mục đích ban hành Luật nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.

Đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Đảm bảo hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.

Nâng cao tính khả thi của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Tiếp thu, nội luật hóa các cam kết quốc tế, đảm bảo sự tương thích giữa quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp với các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết, đặc biệt là các quy định liên quan đến minh bạch hóa, giảm thiểu các rào cản kỹ thuật trong thương mại, thuận lợi hóa thương mại.

Sau khi sửa đổi, bổ sung thì Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật có 6 chương và 66 điều (giảm 1 chương và giảm 5 điều so với Luật hiện hành). Các nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào 6 nhóm nội dung chính trong các chính sách đã được Chính phủ thông qua.

Cụ thể, chính sách 1: Đảm bảo thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng và triển khai đầy đủ các cam kết quốc tế về yêu cầu minh bạch hoá.

Chính sách 2: Thúc đẩy xã hội hoá hoạt động xây dựng, phổ biến và áp dụng tiêu chuẩn.

Chính sách 3: Tăng cường tính hiệu quả của hoạt động đánh giá sự phù hợp.

Chính sách 4: Hoàn thiện quy định về nguyên tắc, đối tượng, căn cứ, trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, công bố TCVN, ban hành QCVN, QCĐP; nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng, quản lý tiêu chuẩn cơ sở theo hướng chặt chẽ hơn.

Chính sách 5: Tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đồng thời đảm bảo hiệu quả, đúng quy định pháp luật, điều ước quốc tế trong quản lý, sử dụng và khai thác tiêu chuẩn.

Chính sách 6: Tăng cường phân cấp, phân quyền, phối hợp giữa các bộ ngành, giữa cơ quan trung ương và địa phương; đổi mới cơ chế, chính sách thu hút, đào tạo nhân lực hoạt động trong hoạt động tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; nâng cao hiệu quả tổ chức, hoạt động của ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia.

 Đáp ứng yêu cầu minh bạch hóa trong thực thi các Hiệp định FTA

Thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho hay, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cơ bản tán thành với sự cần thiết xây dựng dự án Luật với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Hồ sơ dự án Luật cơ bản đáp ứng yêu cầu theo quy định Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.

Đặc biệt, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cơ bản tán thành với việc sửa đổi các quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp (ĐGSPH) để đáp ứng yêu cầu minh bạch hóa trong thực thi các Hiệp định FTA.

Tuy nhiên, dự thảo Luật cần nghiên cứu, bổ sung quy định về điều kiện hoạt động của tổ chức ĐGSPH để bảo đảm tính cạnh tranh, khách quan và hiệu quả của hoạt động này, đặc biệt là hoạt động chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy.

Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đồng tình với quy định thừa nhận đơn phương kết quả ĐGSPH của các tổ chức quốc tế, nước ngoài là giải pháp tối ưu, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu của doanh nghiệp trong tình hình hiện nay đối với một số lĩnh vực công nghệ mới nổi mà nguồn lực trong nước chưa thể đáp ứng nhu cầu thị thường, thúc đẩy xã hội hoá hoạt động thử nghiệm, chứng nhận, giám định, phù hợp thông lệ quốc tế.

Chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia 

Đề cập về về chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia (Điều 8a), Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho rằng, chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia là một nội dung mới, quan trọng được đưa vào dự án Luật. Theo Tờ trình của Chính phủ, báo cáo tổng kết thi hành Luật về tiêu chuẩn hóa quốc tế có giá trị chiến lược trong chính sách kinh tế của mỗi quốc gia. Còn tại Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 2018, Tiểu ban tiêu chuẩn đánh giá sự phù hợp cũng đã khuyến khích các quốc gia thành viên xây dựng chiến lược tiêu chuẩn hóa.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hoạt động xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam thời gian qua chưa được hoạch định và thực hiện một cách tổng thể, đủ tầm chiến lược. Các Bộ, ngành hiện nay xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam theo kiểu thiếu đâu thì bù đó hoặc nếu có yêu cầu của Chính phủ thì đưa vào kế hoạch xây dựng tiêu chuẩn Việt Nam. Do đó, dẫn đến tình trạng có một số Bộ đưa ra kế hoạch xây dựng tiêu chuẩn Việt Nam bổ sung còn nhiều hơn kế hoạch tiêu chuẩn Việt Nam hàng năm và đôi khi vẫn còn chồng chéo, trùng đối tượng tiêu chuẩn Việt Nam, quy chuẩn Việt Nam.

Với bất cập trên, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đề nghị làm rõ sự cần thiết ban hành chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia và lý giải việc không ban hành chiến lược quy chuẩn là như thế nào. Bởi trong dự án Luật có xây dựng chiến lược về tiêu chuẩn hóa nhưng chiến lược về quy chuẩn thì không đặt ra.

Khẳng định tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế phục vụ cho nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật phải góp phần nâng cao sức cạnh tranh, tham gia vào hội nhập kinh tế, tham gia vào các Hiệp định FTA.

Cần tập trung một số vấn đề

Phát biểu kết luận Phiên thảo luận,Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải khẳng định: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao quá trình chuẩn bị hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Để đảm bảo chất lượng dự án Luật trình Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị Chính phủ tiếp thu ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và của cơ quan thẩm tra; đồng thời lưu ý tập trung một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng, đặc biệt là Chỉ thị 38 của Ban Bí thư về đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với các cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng theo hướng tập trung, thống nhất, đồng bộ, hội nhập quốc tế dựa trên nền tảng kỹ thuật hiện đại, công nghệ số và mô hình quản trị thông minh, phục vụ tốt cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất và đời sống. Kiện toàn tổ chức hoạt động cơ quan Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng; thống nhất, hiệu quả, khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, giảm thiểu thủ tục hành chính.

Hai là, tiếp tục rà soát phạm vi sửa đổi và để xử lý triệt để các bất cập hiện nay. Tiếp tục đánh giá đầy đủ tác động của việc thực hiện các cam kết quốc tế, cụ thể thêm các quy định để đáp ứng các cam kết quốc tế về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, quy định về nghĩa vụ minh bạch hóa trong các Hiệp định. Rà soát kỹ sự cần thiết, tính cụ thể, rõ ràng và sự phù hợp, thống nhất với các luật khác đối với các khái niệm giải thích từ ngữ bổ sung thêm cho với luật hiện hành. Nghiên cứu thêm về bảo vệ, bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ đối với các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng, thẩm định, công bố, ban hành, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật để quy định cho phù hợp và chặt chẽ. Nghiên cứu, cụ thể hóa tối đa các chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Hoàn thiện các quy định về chiến lược, tiêu chuẩn quốc gia và kế hoạch xây dựng tiêu chuẩn quốc gia. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế khai thác, cơ sở dữ liệu, cơ chế phân cấp trong xây dựng, khai thác và sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia.

Ba là, nghiên cứu, tiếp thu, điều chỉnh, bổ sung theo ý kiến của cơ quan thẩm tra về trách nhiệm xây dựng, thẩm định, công bố, thông báo áp dụng Tiêu chuẩn quốc gia về việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn. Căn cứ xây dựng Tiêu chuẩn, ban hành kỹ thuật Tiêu chuẩn quốc gia xây dựng áp dụng tiêu chuẩn cơ sở của cơ quan Nhà nước và của doanh nghiệp. Xuất bản, phát hành tiêu chuẩn xây dựng, thẩm định và ban hành quy chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật địa phương; lập báo cáo đánh giá tác dụng xây dựng, quy chuẩn Việt Nam, các quy định về xã hội hóa hoạt động xây dựng phổ biến áp dụng tiêu chuẩn.

Quy định đánh giá sự phù hợp, phân công trách nhiệm quản lý Nhà nước đảm bảo nguồn lực cho hoạt động, lĩnh vực về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và các nội dung khác nêu trong báo cáo thẩm tra và lưu ý tránh phát sinh chi phí, xung đột lợi ích, quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp trong việc xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn.

Bốn là, tiếp tục rà soát để đảm bảo thống nhất trong nội tại của Luật và xử lý mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập với các luật khác để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, nhất là bốn bộ luật và 98 luật có liên quan, trong đó có Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật Khoa học công nghệ, Luật Cạnh tranh, Luật Đầu tư, Luật Ngân sách nhà nước và các luật đang trình Quốc hội sửa đổi như Luật Điện lực, Luật Dược, Luật Phòng cháy, chữa cháy và Luật Phòng không nhân dân. Cụ thể hóa tối đa trong những nội dung đã được kiểm nghiệm và áp dụng ổn định trong thực tiễn, giảm thiểu việc giao Chính phủ, các Bộ quy định rà soát kỹ các quy định về áp dụng luật, điều khoản thi hành để đảm bảo khả thi, tuân thủ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cũng đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tổ chức thêm các hội thảo, tham khảo ý kiến các chuyên gia, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thẩm tra chính thức trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.

TIN LIÊN QUAN