Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 3,3%
Trong tháng 10, tình hình dịch Covid-19 tại nhiều địa phương nhất là TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều địa phương đã nới lỏng các hoạt động so với thời gian thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 15/CT-TTg, Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và ban hành các quy định nhằm điều chỉnh các biện pháp phòng, chống dịch và từng bước phục hồi, phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới theo Nghị quyết số 128/NQ-CP quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.
Theo Ban Quản lý các KCN Đồng Nai, từ đầu tháng 10/2021, địa phương đã trở lại trạng thái 'bình thường mới'. Trên 92% DN trong các khu công nghiệp đã khôi phục sản xuất, trong đó có nhiều nhà máy hoạt động hết công suất.
Các DN đang liên tục bổ sung lao động, để đưa các dây chuyền sản xuất vào hoạt động. Đồng thời, DN cũng tổ chức cho lao động đi, về hàng ngày, bỏ thực hiện theo phương án “3 tại chỗ”.
Một số DN cho biết, nếu dịch bệnh được kiểm soát ổn định, không xảy ra các ca F0 trong nhà máy thì thời gian phục hồi sản xuất chỉ mất 2-3 tháng. Nhiều DN có thuận lợi là phía đối tác cho kéo dài thời gian giao hàng và đặt thêm đơn hàng mới.
Sản xuất công nghiệp đang có dấu hiệu phục hồi
Số liệu của Ban Quản lý các KCN tỉnh Bình Dương cho thấy, đến ngày 28/10, đã có 1.968 DN trong các khu công nghiệp của tỉnh khôi phục lại hoạt động sản xuất, đạt trên 96%. Số lượng lao động trở lại làm việc là gần 373.000 người, đạt gần 76,4%. Trong đó, nhiều công ty có tỷ lệ lao động quay lại làm việc đạt gần 100% và sản xuất khôi phục lại hoàn toàn.
Do vậy, hoạt động sản xuất công nghiệp trong tháng 10 đã có những dấu hiệu phục hồi nhẹ khi chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) tháng 10/2021 ước tính tăng 6,9% so với tháng trước nhưng vẫn giảm nhẹ (giảm 1,6%) so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó: Ngành khai khoáng tăng 9% so với tháng trước nhưng giảm 7,2% so với cùng kỳ năm trước; Ngành chế biến, chế tạo tăng 6,7% so với tháng trước nhưng giảm 1,6% so với cùng kỳ; Sản xuất và phân phối điện tăng 7,5% so với tháng trước và tăng 2,4% so với cùng kỳ; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 1,5% so với cùng kỳ.
Tính chung 10 tháng năm 2021, IIP của toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 2,7% của cùng kỳ năm 2020 nhưng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng 9,5% của cùng kỳ năm 2019. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 4,5% (cùng kỳ năm 2020 tăng 4,2%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,1% (cùng kỳ năm 2020 tăng 3,2%); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,4% (cùng kỳ năm 2020 tăng 4,1%); riêng ngành khai khoáng giảm 7% (cùng kỳ năm 2020 giảm 8,1%).
Chỉ số sản xuất 10 tháng năm 2021 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng trên 10% so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất kim loại tăng 25,1%; sản xuất xe có động cơ tăng 12,5%; Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 10,5%;
Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm sâu so với cùng kỳ năm trước, như: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 13,3%; Công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm11,9%; Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 8,8%; sản xuất đồ uống giảm 5,8%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 5,4%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 1,1%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 10 tháng năm 2021 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 37,3%; sắt thép thô tăng 11,4%; đồng hồ thông minh, tăng 23,7%; linh kiện điện thoại tăng 38,8%; ô tô tăng 12,4%; khí hóa lỏng LPG tăng 14,1%; Xăng dầu các loại tăng 15,5%.
Ngược lại, một số sản phẩm giảm sâu so với cùng kỳ năm trước: Ti vi các loại giảm 40,4%; Khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 18,6%; Dầu thô khai thác giảm 6,9%; Đường kính giảm 9,6%; Bia các loại giảm 10%.
Nhìn chung, hoạt động sản xuất công nghiệp tháng 10 đã dần hồi phục nhưng tính chung 10 tháng năm 2021 vẫn bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh. Vẫn còn một số địa phương tổ chức các biện pháp phòng chống dịch cao hơn quy định Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 4800/QĐ-BYT của Bộ Y tế; Một số tỉnh như: Hà Nội, Tiền Giang, Cà mau... chậm ban hành các hướng dẫn đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc dần hồi phục các hoạt động sản xuất, đặc biệt là các khó khăn về lao động.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, tháng 10/2021, hoạt động sản xuất kinh doanh đã phục hồi đáng kể, DN có nhiều đơn hàng. Thế nhưng, điều đáng lo ngại là nguy cơ lạm phát tăng do giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, chi phí nhân công, chi phí phòng chống dịch cao... Vì vậy, gói hỗ trợ về tài chính lúc này là rất cần thiết, để giúp DN phục hồi tốt hơn, có như vậy mới đảm bảo tăng trưởng nhanh những tháng cuối năm và cả cho năm 2022.
Giải pháp thực hiện cho những tháng cuối năm
Trong những tháng cuối năm, hoạt động sản xuất công nghiệp tiếp tục triển khai khẩn trương, quyết liệt, thống nhất từ Trung ương đến địa phương các nội dung hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 128/NQ-CP quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” và các hướng dẫn của Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải nhằm bảo đảm tối đa lưu thông hàng hóa, lao động trở lại phục vụ việc phục hồi các hoạt động sản xuất sau dịch bệnh, tránh tình trạng “cát cứ”, không thống nhất gây khó khăn cho việc phục hồi các chuỗi cung ứng về hàng hóa và lao động cho sản xuất.
Bảo đảm cung ứng đầy đủ nguyên vật liệu, năng lượng để đáp ứng yêu cầu phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế - xã hội.
Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án công nghiệp quan trọng; hỗ trợ tối đa các nhà máy duy trì và khôi phục sản xuất để giữ đơn hàng, chuỗi cung ứng.
Thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường trong và ngoài nước (từ các cơ hội thị trường xuất khẩu do các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mang lại), thương mại điện tử, kết nối giữa nhà sản xuất và các nhà phân phối, tiêu thụ.
Trong dài hạn, cần thống nhất nguồn lực từ Trung ương đến địa phương tập trung đầu tư, phát triển các dự án công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp nền tảng, các ngành sản xuất xuất khẩu chủ lực như công nghiệp vật liệu, công nghiệp hỗ trợ, cơ khí, ô tô, dệt may, da - giày, điện - điện tử, chế biến thực phẩm...
Tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực các doanh nghiệp công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ thông qua các giải pháp hỗ trợ về tín dụng, nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển thị trường; cũng như các ưu đãi về thuế và đất đai theo quy định của pháp luật.
Xây dựng chính sách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài các dự án công nghiệp quy mô lớn, có gắn với chuyển giao và làm chủ công nghệ, tận dụng đối đa dòng vốn dịch chuyển trong thời gian tới.
Tăng cường hợp tác quốc tế, xúc tiến thị trường ngoài nước tận dụng tối đa cơ hội từ các quốc gia có Hiệp định thương mại tự do với Việt Nam để thúc đẩy xuất khẩu các ngành hàng chủ lực, liên kết doanh nghiệp trong nước và các chuỗi sản xuất toàn cầu.