Cổ tự Sùng Bảo thuộc địa phận xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên được biết đến là ngôi chùa cổ có tuổi đời hơn 1.500 năm tuổi. Nơi đây không chỉ chứa đựng những câu chuyện lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy mà còn nổi tiếng với những câu chuyện kỳ bí không ai lý giải được.
Một trong số đó phải nhắc đến truyền thuyết “tượng đất hóa rồng” tại cổ tự Sùng Bảo, đã được kể lại hàng nghìn năm nay ở mảnh đất Phố Hiến này. Báu vật ấy là tượng Đức Phật bà Đồng Quân.
Chuyện vi diệu về bức tượng của lũ trẻ mục đồng
Theo các bậc cao niên làng Xuân Dục, xưa kia, bãi đất giữa cánh đồng Quân còn hoang vu, chỉ để lau, lách, dứa dại mọc nên thích hợp cho việc chăn thả trâu bò. Lũ mục đồng trong làng đi chăn trâu, lúc rảnh rỗi thường tiêu khiển bằng việc lấy đất nặn tượng chơi trò làm chùa.
Hồi đó, trên cánh đồng Quân gần nơi lũ trẻ chơi đùa có một bụi dứa rất to, xanh um rậm rạp. Thấy địa thế thuận lợi, lũ trẻ chặt cây lau làm cột dựng lều, lấy lá dứa cuốn quanh làm mái rồi chui vào trong nghỉ ngơi, chơi đùa.
Sau đó chúng lấy đất nặn một pho tượng, đặt trong ngôi nhà lau bày trò làm chùa thờ Phật. Hàng ngày, chúng lấy cơm gạo tẻ đóng thành oản, mang ra ngôi nhà lau cúng Bụt rồi mới chia nhau ăn. Thời ấy chưa ai biết đến Phật pháp, bọn trẻ con chăn trâu chỉ nhớ hình tượng Bụt trong chuyện cổ tích nên đặt tên Bụt cho bức tượng và thành tâm lễ cúng Bụt. Chúng lấy bát ở nhà mang ra, treo dưới những lá dứa để làm chuông, rồi cũng gõ vào chuông để tạo không khí trang nghiêm mỗi lần cúng lễ.
Ngày nào không có oản tẻ thì chúng mang những đồ ăn được bố mẹ mua từ chợ về cho ra thắp hương cho Bụt. Không có đồ ăn từ nhà thì chúng bẻ trộm chuối xanh mang ra cúng. Ngày nào cũng phải có lễ gì đấy dâng lên Bụt các mục đồng mới yên lòng. Những đứa trẻ chăn trâu thuở ấy cũng phân chia anh lớn nhất là sái cả, được ngồi cúng chính trước Bụt, còn những đứa trẻ nhỏ hơn thì ngồi bên canh, lễ theo, chờ làm lễ xong mới cùng thụ hưởng.
Ngay trước ngôi chùa của bọn trẻ có một con kênh nho nhỏ, bên phải có chiếc giếng làng lúc nào cũng đục ngầu và luôn sủi tăm nên có tên là giếng Sủi. Dân làng đã tìm cách lấp nhiều lần nhưng không được vì lần nào cũng xảy ra chuyện. Người thì ngã gãy chân, người thì ốm nặng ngay trong ngày khuân đá lấp giếng. Dân làng lo sợ cũng đã làm lễ cúng nhưng người thầy cúng cho rằng giếng thiêng, không thể lấp được nên mọi người không ai dám nghĩ đến chuyện lấp giếng nữa. Đến bây giờ nước trong giếng ấy vẫn còn sủi tăm.
Bọn trẻ chăn trâu tuy nghịch ngợm nhưng cũng biết chuyện giếng thiêng, không dám phạm. Chúng chỉ chăm chú vào việc cúng lễ cho ông Bụt mà chúng nặn lên. Cho tới một buổi tối ngay trước ngày rằm tháng 2 âm lịch, giông gió bất chợt nổi lên từ tứ phía, cây cối đổ ngổn ngang. Lũ trẻ chăn trâu lo lắng “ngôi chùa” làm băng lau, dứa tan tành, Bụt của chúng cũng sẽ biến mất trong cơn giông nên sáng sớm đã gọi nhau ra xem xét.
Ra đến nơi, trước mặt chúng là cảnh tượng cũng tan hoang. Điều kỳ lạ là ở giữa ngôi chùa lá, nơi bọn trẻ con đặt tượng đất lại hiển hiện lên một pho tượng màu vàng nên thấy lạ vội về gọi người lớn ra xem. Dân làng chạy ra ngạc nhiên khi thấy tượng đất tỏa hào quang, toàn thân là màu vàng, hương trầm tỏa ra thơm ngát. Sau này, trong dân gian đã truyền khẩu câu thơ về sự tích ngôi chùa và tượng phật như sau: “Bụi lau lá dứa dựng lên làm chùa”.
Tượng thiêng báo mộng
Không ai nhớ rõ trận bão khiến tượng đất hóa vàng xảy ra năm nào, đời nào, chỉ biết đã xa xưa lắm, cả ngàn năm nay rồi. Các bậc cao niên lại kể rằng: “Khi mưa gió sấm chớp vừa tan thì thấy Ngài điềm nhiên an tọa giữa quán, toàn thân màu vàng, tỏa hào quang sáng bừng cả một vùng. Trông Ngài đẹp và uy nghi”.
Điều kỳ lạ là, ban đầu khi dân làng quỳ lạy và bàn nhau rước Ngài vào một cung trong chùa thì không thể nào dời bức tượng đi được. Y như bức tượng nhỏ có sức nặng ngàn cân. Biết có điềm lạ, mọi người bàn nhau xây một am nhỏ tại nơi Ngài hóa để thờ tự. Nhưng chưa kịp xây thì Ngài về báo mộng cho các cao niên đưa vào chùa. Lúc ấy mới rước được Ngài vào một cung trong chùa và đặt tên pho tượng là Đức Phật bà Đồng Quân.
Người dân địa phương có tục thờ Phật bà Đồng Quân để phù trợ mùa màng tốt tươi. Ngày xưa khi mương máng tưới tiêu nội đồng chưa có, hạn hán liên miên, người dân đã lập đàn cầu mưa và rước tượng Phật bà Đồng Quân từ chùa Sùng Bảo đi xung quanh đồng ruộng để cầu mưa. Các cao niên xác nhận, năm nào cũng vậy, khi rước tượng xong là trời đổ mưa cho ruộng đồng, mương máng tràn trề nước.
Hàng năm, vào dịp rằm tháng 2, cứ 5 năm một lần, dân làng làm lễ rước Phật Bà phải làm lễ xin phép Ngài để được chiêm bái và tắm rửa cho Ngài rồi mới rước cầu Đảo cầu mưa.
Xung quanh truyền thuyết tượng đất hóa vàng chùa Sùng Bảo có nhiều câu chuyện ly kỳ. Tượng vàng Phật bà Đồng Quân từng bị kẻ gian đánh cắp vài lần nhưng thật kỳ lạ, mất rồi vẫn tìm về được. Một lần Ngài bị đánh cắp, bọn trộm trên đường mang đi bán gặp ngáng trở nên đành đưa Ngài đến giấu ở bến sông. Mấy ngày sau các già được Phật báo mộng đến chiếc giếng Sủi bên sông để đón Ngài về. Sáng hôm ấy các già quẩy đôi quang gánh như đi làm đồng, đến bên sông thì đã thấy Ngài ngồi đợi sẵn ở đấy. Lần khác tượng phật bị kẻ gian đánh cắp đưa lên tận Hà Nội, nhưng thật vi diệu là cuối cùng tượng vẫn tìm được về chùa làng. Những kẻ cắp sau đó đều bị bắt, thậm chí có kẻ "không khảo mà xưng" tự ra thú tội.
Câu chuyện “tượng đất hóa tượng vàng” được người dân xã Xuân Dục truyền tụng hàng ngàn năm qua, đến nay vẫn được tiếp tục lưu truyền, kể cho con cháu nghe để cùng giữ gìn để nối tiếp truyền thống văn hóa của các thôn, làng từ bao đời nay với tục lệ thờ Đức Phật bà Đồng Quân cầu mùa màng tươi tốt, bội thu, xây dựng cuộc sống sung túc, no đủ.
Được biết, pho tượng vàng theo truyền thuyết hiện không còn, đã bị thất lạc trong những năm chiến tranh. Tượng Đức Phật bà Đồng Quân thờ trong chùa Sùng bảo giờ chỉ còn là tượng đất, đài sen làm bằng gỗ. Dù không còn tượng vàng nhưng trong lòng dân làng vẫn tin vào Đức Phật bà Đồng Quân nhiệm màu, linh thiêng, giúp mọi người tu nhân tích đức, làm nhiều việc thiện. Được biết, liên quan đến truyền thuyết về tượng Phật bà Đồng Quân, hiện hơn 250 câu kệ về sự tích “tượng đất hóa vàng” vẫn được nhân dân truyền tụng, chép thành sách giữ cho thế hệ mai sau. |