Doanh nghiệp Việt Nam bứt phá nhờ Chương trình 1322 và lấy đà tăng tốc sản xuất, kinh doanh

(CL&CS) - Chương trình quốc gia 1322 đã trở thành “bệ phóng” chiến lược giúp hàng nghìn doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường và nâng tầm cạnh tranh. Cùng với đó là tinh thần tăng tốc sản xuất, kinh doanh tại các địa phương như Quảng Ninh, Hà Tĩnh đang tạo nên những câu chuyện thành công mới, đóng góp mạnh mẽ vào tăng trưởng kinh tế bền vững.

Chương trình 1322 – động lực nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và thị trường nội địa đòi hỏi tiêu chuẩn khắt khe, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm trở thành yếu tố sống còn đối với doanh nghiệp. Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết này, Quyết định số 1322/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021–2030, được coi là công cụ chiến lược giúp doanh nghiệp vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội phát triển.

Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế 

Trải qua 5 năm triển khai (2021–2025), Chương trình 1322 đã hỗ trợ hơn 6.400 doanh nghiệp trên cả nước tiếp cận và áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống quản lý và công cụ cải tiến trong sản xuất và kinh doanh. Việc này không chỉ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện biến động thị trường quốc tế và trong nước.

Một trong những điểm nhấn của Chương trình là hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9001, ISO 14001, ISO 22000…, áp dụng công cụ cải tiến Lean, 5S, Kaizen,… giúp giảm lãng phí, nâng cao năng suất lao động và cải thiện hiệu quả quản trị. Nhờ vậy, nhiều doanh nghiệp đã chứng kiến bước tiến rõ rệt về chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Không chỉ dừng ở hỗ trợ kỹ thuật, Chương trình còn chú trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia năng suất và chất lượng, đáp ứng nhu cầu tư vấn, hướng dẫn cho cộng đồng doanh nghiệp. Trong giai đoạn vừa qua đã có hàng trăm chuyên gia được đào tạo và cấp chứng nhận, tạo nền tảng vững chắc cho phong trào năng suất chất lượng lan tỏa sâu rộng.

Đặc biệt, việc hình thành 102 mô hình điểm về năng suất, chất lượng vượt mục tiêu trước thời hạn tạo ra “ngân hàng bài học thực tiễn” giúp các doanh nghiệp khác học hỏi và ứng dụng. Đây chính là minh chứng rõ nét cho hiệu quả thiết thực của Chương trình 1322 trong thúc đẩy đổi mới quản trị, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.

Qua đó, Chương trình đã giúp nhiều doanh nghiệp đặc biệt là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua rào cản hạn chế về nguồn lực, tiếp cận công cụ quản lý hiện đại và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Những kết quả này góp phần quan trọng đưa năng suất, chất lượng trở thành động lực phát triển mới cho nền kinh tế quốc gia, không chỉ trong giai đoạn 2021–2025 mà còn mở đường cho những tăng trưởng bền vững giai đoạn 2026–2030.

Doanh nghiệp điển hình và những chuyển biến thực tế

Chương trình 1322 đã để lại dấu ấn mạnh mẽ qua những câu chuyện đổi mới ở nhiều doanh nghiệp khắp cả nước. Tại các tỉnh miền Trung, doanh nghiệp đã tiến hành số hóa hệ thống quản lý, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến. Điều này không chỉ tăng chất lượng sản phẩm mà còn mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.

Doanh nghiệp đã tiến hành số hóa hệ thống quản lý, truy xuất nguồn gốc sản phẩm

Ở nhiều địa phương khác như Thái Nguyên, Phú Thọ, Lai Châu…, doanh nghiệp và hợp tác xã đã được hỗ trợ áp dụng hệ thống ISO, VietGAP, HACCP; tối ưu hóa quy trình sản xuất nhờ ứng dụng công nghệ mới, qua đó tăng năng lực cạnh tranh, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Trong lĩnh vực nông nghiệp và sản xuất thực phẩm, các chuỗi truy xuất nguồn gốc được triển khai mạnh mẽ, giúp sản phẩm nông sản đạt yêu cầu chất lượng cao hơn. Những doanh nghiệp tham gia Chương trình đã bắt đầu thấy được hiệu quả qua việc tăng năng suất lao động, giảm sự cố chất lượng và rút ngắn thời gian lưu kho, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh rõ rệt trước các đối thủ.

Chưa kể, hàng loạt doanh nghiệp đã đạt được thành tựu chứng nhận theo các tiêu chuẩn quốc tế, từ đó trở thành đối tác đáng tin cậy trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng đặt mục tiêu vươn xa ra thị trường thế giới, nơi yêu cầu về chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm luôn ở mức cao nhất.

Ông Nguyễn Nam Hải, Chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (TCĐLCL), cho biết giai đoạn 2021 - 2025, cơ quan thường trực Chương trình đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố để xây dựng kế hoạch, hướng dẫn và tổ chức triển khai đồng bộ các nhiệm vụ. Từ đó, các địa phương chủ động lồng ghép nội dung hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp với điều kiện thực tế, tạo nên một mạng lưới triển khai liên tục và rộng khắp.

“Trong 5 năm qua, Chương trình đã lan tỏa sâu rộng tới cộng đồng doanh nghiệp. Từng nhóm doanh nghiệp được hỗ trợ tiếp cận các mô hình quản trị tiên tiến, tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế, công cụ cải tiến năng suất. Nhiều doanh nghiệp đã chứng kiến kết quả rõ rệt: Năng suất tăng, lãng phí giảm, chất lượng sản phẩm nâng lên, quản trị hiệu quả hơn”, ông Hải nhấn mạnh.

Ông Hoàng Xuân Hiệp - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp và Thương mại Hà Nội đánh giá, 1322 là một trong những chương trình gắn kết chặt chẽ với cộng đồng doanh nghiệp, mà doanh nghiệp chính là “hơi thở” của phát triển kinh tế. Ông cho rằng, 1322 đang hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng - là hai công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp. Đặc biệt, với nền kinh tế có độ mở cao như Việt Nam, Chương trình 1322 mang đến các công cụ cải tiến, hệ thống quản lý thiết thực giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng một cách thực chất.

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Ngô Quý Việt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục duy trì phong trào năng suất, chất lượng trong giai đoạn 2026–2030. Ông cho rằng doanh nghiệp cần đẩy mạnh triển khai ở các lĩnh vực xã hội đang đặc biệt quan tâm như an toàn vệ sinh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, những xu hướng lớn có tác động lan tỏa sâu rộng.

Quảng Ninh, Hà Tĩnh cùng tăng tốc sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững

Trong bối cảnh Chương trình 1322 đang lan tỏa ngày càng sâu rộng, bức tranh sản xuất, kinh doanh tại nhiều địa phương cho thấy sự chuyển động mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp. Các tỉnh như Quảng Ninh, Hà Tĩnh... đang là một điểm sáng về tinh thần tăng tốc sản xuất cuối năm, qua đó đặt nền móng quan trọng cho tăng trưởng kinh tế năm 2026.

Chủ động đẩy nhanh tiến độ sản xuất, kinh doanh 

Tại Quảng Ninh, các doanh nghiệp đã chủ động đẩy nhanh tiến độ sản xuất, kinh doanh ngay từ những tháng cuối năm nhằm hoàn thành kế hoạch và tạo dư địa phát triển cho giai đoạn tiếp theo. Với lợi thế hệ thống khu công nghiệp phát triển, tập trung nhiều ngành sản xuất như dệt may, chế biến, điện tử, cơ khí, linh kiện và hàng tiêu dùng, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã hoạt động với công suất cao để đáp ứng các đơn hàng lớn. Điều này không chỉ giúp duy trì tăng trưởng doanh thu mà còn bảo đảm việc làm, thu nhập ổn định cho người lao động, góp phần giữ vững ổn định kinh tế, xã hội địa phương.

Mặc dù mới khánh thành nhà máy nhưng Công ty Xiamen Solex High-Tech Industries - doanh nghiệp FDI chuyên sản xuất thiết bị vệ sinh thông minh, cao cấp tại khu công nghiệp Deep Bắc Tiền Phong đã nhanh chóng vận hành toàn bộ dây chuyền, tăng tốc sản xuất để kịp tiến độ các đơn hàng xuất khẩu cho đối tác tại Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Ông Chen Bin, Chủ tịch Công ty, cho biết: “Hiện các dây chuyền và gần 500 lao động của nhà máy đang hoạt động hết công suất. Tôi tin tưởng hoàn thành mục tiêu giá trị sản lượng quý IV đạt 10 triệu USD, tạo đà để năm 2026 đạt mục tiêu 200 triệu USD sản lượng cả năm”.

Không chỉ Công ty Xiamen Solex High-Tech Industries, phần lớn các doanh nghiệp FDI cũng như doanh nghiệp trong nước tại Quảng Ninh đang dồn lực cho chặng "nước rút". Sau thời gian bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thuế quan và biến động thị trường, đến nay nhiều đơn vị đã lấy lại đà tăng trưởng ổn định, tích cực mở rộng thị phần và tìm kiếm khách hàng mới. Tại các KCN: Hải Yên, Hải Hà, Sông Khoai, Đông Mai, Việt Hưng, hàng loạt doanh nghiệp dệt may, chế biến, chế tạo, điện tử, sản xuất ô tô… đang gia tăng năng lực sản xuất để đáp ứng nhu cầu đơn hàng tăng mạnh dịp cuối năm.

Phần lớn các doanh nghiệp đang dồn lực cho chặng đường nước rút, tăng trưởng ổn định

Song song với đó, các doanh nghiệp Quảng Ninh ngày càng linh hoạt trong mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm và đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị, điều hành. Việc ứng dụng công nghệ số, kết hợp với các hệ thống quản lý tiên tiến được hỗ trợ từ Chương trình 1322, đang giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh một cách thực chất, không chỉ trong ngắn hạn mà cả về dài hạn.

Cùng chung nhịp tăng tốc, doanh nghiệp Hà Tĩnh cũng ghi nhận sự phục hồi và bứt phá rõ nét trong những tháng cuối năm. Nhiều doanh nghiệp tập trung hoàn tất đơn hàng, duy trì nhịp sản xuất ổn định và chủ động mở rộng thị trường tiêu thụ. Chỉ số sản xuất công nghiệp của tỉnh tiếp tục tăng trưởng tích cực, phản ánh nỗ lực vượt khó và khả năng thích ứng linh hoạt của khu vực sản xuất trong bối cảnh kinh tế còn nhiều biến động.

Đáng chú ý, các doanh nghiệp công nghiệp chủ lực tại Hà Tĩnh như nhiệt điện, thép, chế biến, chế tạo đã duy trì sản lượng ổn định, đóng vai trò “trụ cột” cho tăng trưởng công nghiệp địa phương. Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp nhẹ như may mặc, xơ sợi, dệt cũng ghi nhận sự khởi sắc nhờ tận dụng tốt các đơn hàng xuất khẩu cuối năm và chủ động cải tiến quy trình sản xuất.

Sản phẩm “made in Hà Tĩnh” ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế. 11 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu may mặc đạt 46,6 triệu USD, tăng 78,2% so với cùng kỳ 2024; kim ngạch xuất khẩu xơ, sợi, dệt đạt 12,19 triệu USD, tăng 83,58% so với cùng kỳ 2024. Kết quả này không chỉ là nỗ lực của doanh nghiệp mà còn phản ánh xu hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng đa dạng, giảm dần phụ thuộc vào một vài ngành truyền thống.

Ông Nguyễn Cảnh Vinh – Phó Giám đốc Công CP Sản xuất đầu tư và Thương mại TAAD Hà Tĩnh cho hay: "Doanh nghiệp đang tăng tốc “phủ kín” đơn hàng cuối năm, nâng doanh thu xuất khẩu lên 50 tỷ đồng. Đồng thời, dồn mọi nguồn lực để triển khai hợp đồng đã ký kết với các doanh nghiệp Nhật Bản đến hết quý I/2026”.

Theo lãnh đạo Sở Công thương, năm 2025, IIP của Hà Tĩnh ước tăng 5% so với năm 2024. Hướng tới mục tiêu này, sở sẽ tiếp tục phối hợp, lắng nghe ý kiến doanh nghiệp, tiếp nhận các khó khăn, vướng mắc để có giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh đối với khối doanh nghiệp công nghiệp. Không chỉ doanh nghiệp lớn, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh cũng từng bước nâng cao năng lực quản trị, áp dụng tiêu chuẩn chất lượng và phủ kín đơn hàng, tạo nền tảng cho phát triển bền vững trong năm tới.

Điểm chung dễ nhận thấy ở tỉnh Quảng Ninh và Hà Tĩnh là vai trò đồng hành, kiến tạo của chính quyền địa phương. Việc cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phát triển hạ tầng logistics và hỗ trợ hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu đã giúp doanh nghiệp giảm chi phí, tăng khả năng kết nối thị trường và thu hút thêm nguồn lực đầu tư. Đây chính là “chất xúc tác” quan trọng giúp các địa phương biến áp lực cuối năm thành động lực tăng trưởng.

Từ thực tiễn Quảng Ninh và Hà Tĩnh có thể thấy, khi Chương trình 1322 được triển khai đồng bộ với quyết tâm của chính quyền và sự chủ động của doanh nghiệp, năng suất và chất lượng không chỉ là khẩu hiệu mà đã trở thành lực đẩy thực sự cho tăng trưởng. Những nỗ lực tăng tốc sản xuất, kinh doanh ở cấp địa phương đang góp phần tạo nền móng vững chắc cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững của cả nước trong giai đoạn 2026–2030.

Nhìn chung, Chương trình quốc gia 1322 đã chứng minh được hiệu quả thiết thực khi trở thành động lực giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Đồng thời, tinh thần chủ động tăng tốc sản xuất, kinh doanh tại các địa phương như Quảng Ninh, Hà Tĩnh… đang tạo ra những chuyển biến tích cực, góp phần vào tăng trưởng kinh tế bền vững. Cùng với những định hướng tiếp theo cho giai đoạn 2026–2030, doanh nghiệp Việt Nam đang từng bước vững vàng hơn trên con đường hội nhập và phát triển toàn diện.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định đề nghị Ủy ban TCĐLCL Quốc gia triển khai các nhóm định hướng lớn. Trong đó chú trọng đổi mới mạnh cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp, theo hướng linh hoạt và trực tiếp, dựa trên chính sách của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo. Lấy doanh nghiệp làm trung tâm, ưu tiên doanh nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp chủ lực của từng ngành. Đông thời đột phá trong tiêu chuẩn hóa và hạ tầng chất lượng, ưu tiên ESG, kinh tế xanh, Halal và chuyển đổi số. Phát triển mạnh đội ngũ chuyên gia năng suất, chất lượng, hướng tới đạt mục tiêu 1.000 chuyên gia vào 2030.

TIN LIÊN QUAN