Hội thảo này nhằm nghiên cứu, tổng hợp phân tích, tuyên truyền thúc đẩy việc sửa đổi Luật số 71/2014/QH13 theo hướng chuyển ngành phân bón và vật tư nông nghiệp từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng chịu thuế GTGT với mức thuế suất hợp lý, để khấu trừ thuế các nguyên vật liệu đầu vào và tăng thuế xuất khẩu ngành phân bón và vật tư nông nghiệp; đồng thời đề xuất các giải pháp, hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Nhóm vật tư nông nghiệp là một trong những ngành nghề quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, bao gồm giống cây trồng, giống vật nuôi, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, hóa chất, chế phẩm sinh học, chất xử lý, cải tạo môi trường trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản…
Hội thảo Vai trò của chính sách thuế trong sự phát triển của thị trường vật tư nông nghiệp Việt Nam
Trong đó, phân bón là vật tư quan trọng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong giá thành trồng trọt trong khi ngành trồng trọt chiếm 64 – 68% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành nông nghiệp.
Ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) chia sẻ mỗi năm Việt Nam rơi vào khoảng 10 triệu tấn phân bón, và vẫn phải nhập khẩu các loại phân bón Việt Nam chưa tự sản xuất được.
Điều này cho thấy, những chính sách về thuế về vật tư nông nghiệp, đặc biệt liên quan đến phân bón ảnh hưởng đến toàn bộ xâu chuỗi thành phần tham gia chứ không chỉ liên quan đến giá.
Ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Theo ông Đạt, chính sách đưa ra cần có sự điều tiết hài hòa, đi từ những gì ưu việt nhất trong sản xuất nông nghiệp, để tất cả các thành phần tham gia đều có những lợi ích chung, bền vững, đặc biệt là nông dân. Chính sách thuế VAT là một trong những giải pháp để điều tiết được giá thành phân bón trong nước; tác động đến việc thay đổi thói quen, cách thức, quy mô sản xuất, công nghệ để tiết giảm chi phí sản xuất đem lại lợi ích cao nhất cho sản phẩm… Tuy nhiên ông Đạt cũng lưu ý, “việc áp dụng thuế VAT cần phù hợp với từng thời điểm, để không ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất trong nước nói chung và với nông nghiệp nói riêng.
Tại hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương, Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân cho hay, chính sách thuế hỗ trợ cho nông nghiệp đã được thực hiện từ rất lâu tại Việt Nam, trong đó có chính sách thuế GTGT, có những thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế qua từng giai đoạn.
Tuy nhiên trong quá trình thực thi luật thuế GTGT đã bộc lộ bất cập, đặc biệt là mặt hàng phân bón đưa vào đối tượng không chịu thuế.
Các nước này phần lớn đưa phân bón vào diện chịu thuế VAT. Mặt hàng này khi nhập khẩu vào Việt Nam lại không phải chịu thuế VTA tại khâu nhập khẩu nên doanh nghiệp nước ngoài có điều kiện hạ giá bán với sản phẩm nhập, cạnh tranh không công bằng với phân bón sản xuất tại thị trường Việt Nam.
“Trước thực tiễn đó, điều quan trọng là phải phát triển một chiến lược rõ ràng cho lĩnh vực này. Với các mặt hàng vật tư nông nghiệp là phân bón và thức ăn chăn nuôi, thức ăn thuỷ sản nên có sự đối xử về thuế khác nhau. Đối với phân bón nên đưa vào đối tượng chịu thuế VAT với thuế suất 5%” - bà Dương đề xuất.
Nói về thực trạng của chính sách thuế với vật tư nông nghiệp, TS. Bùi Thị Mến - Chủ nhiệm bộ môn thuế, tài chính công - Học viện Ngân hàng cho biết, việc đề xuất sửa đổi một số quy định về thuế, chẳng hạn chính sách tính thuế VAT khoảng 5% đối với vật tư nông nghiệp đã gây ra nhiều tranh luận gần đây.
Bà Mến cho biết, ngoài các trường hợp áp dụng thuế nhập khẩu thông thường thì hiện nay Việt Nam áp dụng miễn thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm trong nước chưa sản xuất được, cần thiết nhập khẩu để phục vụ trực tiếp cho hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
Vật tư nông nghiệp đều thuộc đối tượng được áp dụng thuế suất thấp hơn so với mức thuế suất phổ biến tại Việt Nam (10%), trong đó chủ yếu là các đối tượng thuộc trường hợp không chịu thuế VAT. Từ năm 2015, phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế VAT ở tất cả các khâu kinh doanh (heo Luật thuế VAT năm 2008 sản phẩm này chịu thuế VAT 5%)
Làm rõ thêm nội dung này, ông Nguyễn Văn Phụng - Chuyên gia cao cấp về thuế và quản trị doanh nghiệp cho rằng, việc đưa vào diện chịu thuế GTGT với mức thuế suất 5% không chỉ phù hợp với thực tiễn của nền kinh tế, mà cũng là mở rộng diện chịu thuế, mở rộng cơ sở thuế như mục tiêu Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.
Ông Nguyễn Văn Phụng - Chuyên gia cao cấp về thuế và quản trị doanh nghiệp
Ông Nguyễn Văn Phụng phân tích, sau 8 năm thực hiện, quy định không chịu thuế đã gây khó khăn cho cả nông dân và các doanh nghiệp sản xuất vì 2 lý do.
Thứ nhất chúng ta đã hạ dần mức bảo hộ về thuế đối với các mặt hàng này (hạ dần từ trên dưới 10% xuống 0%) và áp thuế GTGT thống nhất giữa hàng nhập khẩu với hàng cùng loại sản xuất trong nước nên hàng nhập khẩu luôn bám theo hàng trong nước để hưởng lợi.
Thứ hai, nền kinh tế của ta chuyển dần sang kinh tế thị trường nên giá bán do doanh nghiệp và người mua đồng thuận, khi các doanh nghiệp sản xuất phân bón và máy nông nghiệp không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào buộc phải cộng vào giá thành, tăng giá bán cho nông dân. Khi đó, doanh nghiệp nước ngoài cộng thêm tỷ lệ % do tâm lý thích hàng nhập khẩu. Kết quả cuối cùng là ngân sách nhà nước giảm thu (do không thu được thuế ở khâu nhập khẩu), doanh nghiệp trong nước và nông dân đều thiệt thòi.