Kỹ sư Việt kiều theo Bác về nước với 1 tấn tài liệu
Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa (1913-1997) tên thật là Phạm Quang Lễ, là một nhà khoa học, kỹ sư quân sự và tướng lĩnh xuất sắc của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông đã đặt nền móng cho ngành khoa học kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng của nước ta. Với những cống hiến to lớn, ông được tôn vinh là Anh hùng Lao động và Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Sinh ra trong một gia đình nghèo khó và mất cha từ sớm nhưng với tư chất thông minh, chăm chỉ, chàng thanh niên Phạm Quang Lễ đã vượt qua nhiều khó khăn để vươn lên. Sau khi hoàn thành bậc Đệ nhất cấp tại trường tỉnh Mỹ Tho, ông tiếp tục học tại Trường Trung học Pétrus Ký danh tiếng, nay là Trường THPT Lê Hồng Phong ở Sài Gòn.
Năm 1933, ông xuất sắc đỗ đầu hai bằng Tú tài của cả Việt và Pháp. Chỉ hai năm sau, ông giành được học bổng để sang Pháp du học ở tuổi 22. Với sự nỗ lực không ngừng, ông đã hoàn thành cùng lúc ba bằng đại học gồm kỹ sư cầu đường, kỹ sư điện và cử nhân toán. Không dừng lại ở đó, ông còn lấy thêm bằng kỹ sư hàng không.
Ông còn dành thời gian nghiên cứu tại Đức về chế tạo máy bay và vũ khí, trước khi quay lại Pháp làm kỹ sư trưởng cho Hãng nghiên cứu chế tạo máy bay Concord. Tất cả số tiền dành dụm được, ông đều đầu tư vào việc mua sách nghiên cứu về vũ khí, với mong muốn một ngày sẽ trở về giúp đỡ quê hương. Ông luôn trăn trở, Việt Nam là dân tộc có truyền thống đánh giặc nhưng lại thiếu vũ khí hiện đại.
Và cuộc gặp gỡ năm 1946 với Bác Hồ tại Pháp đã thay đổi định mệnh cuộc đời của người thanh niên Phạm Quang Lễ.
Ngày 19/9/1946, ông về nước cùng Bác trên chiến hạm Dumont d’Urville từ cảng Toulon và mang theo 1 tấn tài liệu. Trong hồi ký "Trở về Tổ quốc kính yêu", tác giả Thành Đức dẫn lại trong sách, ông đã chia sẻ những gửi gắm của mình với bạn bè ở Paris. Trước khi theo Bác trở về Tổ quốc, ông được hưởng mức lương của kỹ sư trưởng là 5.500 franc/tháng, tương đương với 22 lạng vàng thời đó.
"Ông Phật làm súng"
Cũng trong năm 1946, trước yêu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy cam go, Bác Hồ đã giao cho ông trọng trách làm Cục trưởng Cục Quân giới với nhiệm vụ nghiên cứu và chế tạo vũ khí cho bộ đội ta.
Kỹ sư Phạm Quang Lễ xin được Bác đặt tên cho. Bác vui vẻ nói: “Phục vụ nhân dân là nghĩa lớn. Vậy Bác đặt bí danh cho chú là Trần Đại Nghĩa!”. Và cái tên đó đã gắn với ông suốt cả cuộc đời.
Dù phải đối mặt với vô vàn khó khăn và thiếu thốn, Giáo sư Trần Đại Nghĩa và các đồng nghiệp đã xuất sắc chế tạo thành công những vũ khí hiện đại như súng bazooka và súng đại bác không giật (SKZ). Đây là những thành tựu vượt bậc, đánh dấu một kỳ tích phi thường của quân và dân ta.
Khi nhìn thấy chiến công của bazooka ở chùa Trầm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gọi Trần Đại Nghĩa là "ông Phật làm súng" vì sự hiền lành và ít nói của ông.
Trong các giai đoạn kháng chiến sau này, dưới sự lãnh đạo của Giáo sư, nhiều loại vũ khí được chế tạo thành công bằng vật liệu sẵn có và công nghệ đơn giản như ngòi thủy lôi áp suất ABS, các loại mìn, thủ pháo dù dành cho đặc công. Những cải tiến này không chỉ giúp đặc công đánh hiểm mà còn phát triển sâu hơn trong lòng địch. Đặc biệt, việc cải tiến ĐKB-H12 từ viện trợ của Liên Xô đã trở thành công nghệ đặc thù của ta.
Năm 1948, ông Trần Đại Nghĩa được phong quân hàm cấp tướng và giữ nhiều vị trí quan trọng như Cục trưởng Cục Pháo binh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật.
Sau khi rời quân đội, ông tiếp tục cống hiến cho đất nước qua các vai trò như Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Công Thương, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam và Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Ở bất cứ cương vị nào, ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý, trong đó có việc được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Với những cống hiến vượt bậc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp từ 1945-1954, ông đã được Đảng và Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí, bao gồm bazooka, súng SKZ và đạn bay.
Năm 1952, ông là một trong bảy người đầu tiên được phong tặng danh hiệu "Anh hùng", cùng với những tên tuổi như Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Thị Chiên... Đặc biệt, ông cũng là vị tướng đầu tiên được phong danh hiệu "Anh hùng".
Thế hệ sau tiếp nối truyền thống
Mải mê với sự nghiệp cách mạng, Giáo sư Trần Đại Nghĩa mãi chưa lập gia đình. Có một câu chuyện thú vị được truyền lại thế hệ sau về mối duyên của ông và người vợ là y tá tên Nguyễn Thị Khánh. Cả hai được mai mối cho nhau nhưng trong lần đầu gặp gỡ, ông Nghĩa đem sách vở đến chỗ bà Khánh làm việc 2 hôm mà chẳng dám nói gì.
Cuối cùng, bà Khánh không thể chờ đợi thêm, đành chủ động bắt chuyện trước và từ đó cả hai bắt đầu tìm hiểu nhau. Chính bà Khánh cũng là người đã băng bó vết thương cho ông Nghĩa. Qua thời gian, tình cảm giữa họ dần nảy nở. Câu chuyện tình yêu ấy kết thúc bằng một đám cưới giản dị được tổ chức tại Cục Quân giới ở Bắc Kạn vào tháng 9/1947.
Ông bà có với nhau bốn người con trai. Cả bốn người con của Giáo sư Trần Đại Nghĩa đều vô cùng xuất sắc và đã có những cống hiến quan trọng cho đất nước. Trong đó, người con cả Trần Dũng Trí là Đại tá trong quân đội; ông Trần Dũng Trình là nguyên Phó Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam...
Ông Trần Dũng Trí chia sẻ trên Báo Nông Nghiệp: "Tháng 10/1951, mẹ tôi sinh ra tôi và đặt tên là Trần Dũng Trí. Sau này, khi chúng tôi hỏi về việc đặt tên, mẹ nói: 'Mẹ nghĩ Bác Hồ đã đặt tên cho ba các con là họ Trần thì các con cũng lấy họ Trần, các cháu cũng lấy họ Trần để nối tiếp sự nghiệp của cha'."