Trong những năm gần đây, khi mà những biến đổi khí hậu ảnh hưởng rõ nét tới môi trường sống trên trái đất thì nguồn phát thải ô nhiễm đã được chú ý giảm thiểu, việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch truyền thống (than đá, dầu thô) ngày một hạn chế. Con người đang hướng tới sử dụng những dạng nhiên liệu bền hơn, sạch hơn, ít gây ô nhiễm môi trường sống hơn. Việc đưa vào sử dụng và phát triển LNG tại Việt Nam đã và đang còn nhiều cơ hội cho ngành năng lượng Việt Nam, song thực tế còn nhiều khó khăn, trở ngại để đưa vấn đề này trở thành hiện thực.
Theo TS. Mai Duy Thiện – Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam cho biết, theo Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu chuyển đổi 18 GW điện than vào năm 2030 thay thế bằng 14 GW điện khí LNG và 12-15 GW nguồn năng lượng tái tạo. Như vậy, đến năm 2030 sẽ phát triển 23.900 MW điện khí, tương đương tỷ trọng hơn 14,9% cơ cấu nguồn điện. Nhu cầu nhập khẩu LNG sẽ tăng lên, đạt khoảng 14-18 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 13-16 tỉ m3 vào năm 2045.
TS. Mai Duy Thiện – Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam
Phát triển điện khí LNG góp phần bảo đảm cung cấp điện ổn định cho hệ thống, giảm thiểu phát thải khí nhà kính tác động đến môi trường; là nguồn dự phòng khi tỷ trọng của các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao trong cơ cấu nguồn, không gặp tình trạng gián đoạn và phụ thuộc vào thiên nhiên như điện gió hay điện mặt trời. Nhiệt điện khí LNG cũng là giải pháp hạn chế phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện than vốn chiếm tỷ lệ khả cao trong hệ thống hiện nay; đặc biệt, giúp ngành điện phát triển xanh hơn, góp phần thực hiện cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị COP26 về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
“Tuy nhiên, việc chuyển dịch sang hướng phát triển năng lực xanh sạch, trong đó có phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng không dễ dàng, không thể thực hiện một sớm, một chiều. Các dự án điện khí thiên nhiên hóa lỏng thường đòi hỏi các nguồn vốn lớn… Trong khi đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án khí thiên nhiên hóa lỏng ở Việt Nam chưa được xây dựng hoàn chỉnh, thậm chí Việt Nam hiện chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan, địa điểm thiết kế, xây dựng, vận hành và các cơ sở hạ tầng phục vụ cho khí thiên nhiên hóa lỏng nhập khẩu” – TS. Mai Duy Thiện chia sẻ.
Theo TS. Vũ Quang Hùng – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công Thương cho biết, nguồn khí từ các mỏ đang chuẩn bị phát triển có điều kiện địa chất phức tạp và/hoặc mỏ nhỏ cận biên, chất lượng khí không cao dẫn đến giá khí dự kiến cao và tiến độ đưa vào khai thác còn rủi ro.
TS. Vũ Quang Hùng – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công Thương
Tổng nguồn điện khí hiện có sẽ chuyển đổi sang sử dụng LNG trong giai đoạn 2024-2030 là khoảng 4.380MW, sau 2030 là 2.700MW. Việc chuyển đổi sang sử dụng LNG sẽ tăng kinh phí đầu tư và gián đoạn đến sản xuất một giai đoạn nhất định. Bên cạnh đó, hiện nay các tuyến ống dẫn khí từ kho LNG thiếu đồng bộ khi các khu công nghiệp được quy hoạch chưa tính đến dành hành lang cho tuyến ống dẫn khí đốt.
Do vậy, TS. Vũ Quang Hùng đề xuất cần duy trì ổn định khai thác khí nhằm nguồn cung cấp khí ổn định, nâng cao năng lực khai thác nhằm đảm bảo cung cấp cho các nhà máy điện khí đang họat động; xây dựng chiến lược, kế hoạch cụ thể cho vấn đề nhập khẩu LNG, hình thành thị trường LNG.
Đồng thời, cần hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến giá và cơ chế giá; xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, các quy định để hỗ trợ cho phát triển nhiệt điện khí, đảm bảo phát triển điện khí phù hợp với tình hình hệ thống điện; hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế quản lý vận hành chuỗi Khí - Điện nhằm thúc đẩy triển khai các dự án đầu tư điện LNG theo hình thức đầu tư (IPP) quy mô lớn.
Ngoài ra, nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển, khai thác và sử dụng khí thiên nhiên; khuyến khích và ưu đãi cho các nhà đầu tư thăm dò và khai thác các mỏ khí, đặc biệt là các mỏ khí có trữ lượng giới hạn biên; đa dạng hóa hình thức đầu tư, liên doanh xây dựng nhà máy điện chạy khí để bán điện cho lưới điện quốc gia.
Chuyên gia kinh tế TS. Vũ Đình Ánh cũng nêu rõ những rào cản về cơ chế và giá trong phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng, đến nay, Việt Nam vẫn chưa có cơ chế hay quy định cụ thể cho việc phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng.
Chuyên gia kinh tế TS. Vũ Đình Ánh
“Việt Nam cũng như chưa có quy định hay tiêu chuẩn trong việc xây dựng kho cảng và nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng. Việc xây dựng nhà máy điện khí thiên nhiên hóa lỏng cũng đòi hỏi phải gần vị trí kho cảng nhập khí thiên nhiên hóa lỏng trong khi kho cảng nhập khí thiên nhiên hóa lỏng thì lại yêu cầu phải xây dựng gần cảng nước sâu để phục vụ cho tàu khí thiên nhiên hóa lỏng trọng tải lớn. Vì vậy, cùng với yêu cầu vị trí xây dựng có thể đấu nối vào lưới truyền tải thì yêu cầu liên quan đến kho cảng khí thiên nhiên hóa lỏng cũng đang là thách thức với các nhà đầu tư hiện nay. Con đường đến chuyển đổi năng lượng không hề dễ dàng do hai rào cản chính Việt Nam phải đối mặt là thiếu cơ sở hạ tầng và năng lực truyền tải cùng vấn đề kinh phí… Thứ hai, là ở Việt Nam vẫn tồn tại rào cản về quy hoạch, Chính phủ cần sớm phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII để triển khai các khâu nguồn - lưới đồng bộ…”, TS. Vũ Đình Ánh nhấn mạnh.