Cụ thể, so với tháng 7/2021, chỉ có 3 nhóm sản phẩm tăng là sắn và sản phẩm từ sắn (+26,6%), sản phầm từ ngũ cốc (+1,1%), sữa và sản phẩm sữa (+0,8%), còn lại đều giảm mạnh về giá trị XK. Giảm mạnh nhất là sản phẩm gỗ (-50,2%), cá tra và tôm (-29,7%), rau củ (-25,8%), phân bón (-23,6%), hồ tiêu (-21,5%),…
Nguyên nhân chính do dịch Covid-19 đã tác động lớn đến hoạt động sản xuất, chế biến của nhiều DN/nhà máy chế biến phục vụ xuất khẩu, nhiều DN/nhà máy chỉ hoạt động ở 30-40% công suất, thậm chí phải đóng cửa do có F0.
Tuy nhiên, tính chung 8 tháng, kim ngạch XK nông lâm thủy sản ước đạt 32,1 tỷ USD, tăng 21,6% so với cùng ký năm trước (giá trị nhóm hàng thô và sơ chế khoảng 21,5 tỷ USD, chiếm 67% tổng kim ngạch XK). Trong đó, XK nhóm nông sản chính ước đạt trên 13,9 tỷ USD, tăng 13,6%; lâm sản chính đạt khoảng 11,2 tỷ USD, tăng 42,7%; thủy sản đạt trên 5,6 tỷ USD, tăng 7,1%; chăn nuôi ước đạt 296 triệu USD, tăng 15,9%; nhóm đầu vào sản xuất khoảng 1,1 tỷ USD, tăng 31,1%.
Mặc dù tháng 8, giá trị XK của hầu hết các mặt hàng đều giảm, nhưng do những tháng đầu năm tăng mạnh nên tính chung 8 tháng, nhiều sản phẩm/ nhóm sản phẩm có giá trị XK tăng gồm: Cà phê, cao su, nhóm hàng rau quả, hồ tiêu, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn, sản phẩm chăn nuôi, cá tra, tôm; sản phẩm gỗ; mây, tre, cói thảm; quế,…
Trong đó, cao su, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn, tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu, cụ thể: Cao su (+23,3% khối lượng, +61,4% giá trị), hạt điều (+19,2%, +15,1%), sắn và sản phẩm từ sắn (+13,4%, +28,4%). Riêng hồ tiêu dù khối lượng XK giảm (đạt 200 nghìn tấn, giảm 1,3%) nhưng nhờ giá XK bình quân tăng nên giá trị XK vẫn tăng (đạt 666 triệu USD, tăng 50,2%) hay cà phê dù khối lượng giảm 6,9% nhưng giá trị XK vẫn tăng nhẹ 1,1%.
Những mặt hàng khác tăng giá trị chủ yếu nhờ khối lượng như: Sản phẩm chăn nuôi (+15,9%), cá tra (+9,9%), tôm (+7,7%); sản phẩm gỗ (+45,4%), mây, tre, cói thảm (+68,1%); quế (+36,6%). 02 mặt hàng giảm cả khối lượng và giá trị xuất khẩu dù giá xuất khẩu bình quân tăng, gồm: Gạo (-14,8% và -6,8%), chè (-6,0% và -1,6%).
Giá xuất khẩu bình quân 8 tháng nhiều mặt hàng tăng: Hồ tiêu đạt 3.327,4 USD/T (+51,4%), cao su đạt 1.670,7 USD/T (+30,9%), gạo đạt 535,3 USD/T (+9,4%), cà phê đạt 1.858,5 USD/T (+8,6%), sắn đạt 256 USD/T (+13,2%), chè đạt 1.669,4 USD/T (+4,7%). Riêng giá XK hạt điều đạt 6.172,6 USD/T (-3,5%)
Về thị trường XK, ước giá trị XK nông, lâm, thủy sản 8 tháng đầu năm của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á (chiếm 41,5% thị phần), châu Mỹ (31,3%), châu Âu (11,3%), châu Phi (1,9%), châu Đại Dương (1,5%).
Thị trường XK lớn nhất là Hoa Kỳ đạt trên 9,3 tỷ USD (chiếm 29,1% thị phần), trong đó kim ngạch XK nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tới 71,0% tỷ trọng kim ngạch XK NLTS của Việt Nam sang thị trường này; đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc gần 6,1 tỷ USD (chiếm 18,9% thị phần) với kim ngạch xuất khẩu nhóm rau quả chiếm tới 25,5% tỷ trọng kim ngạch XK NLTS; thứ 3 là thị trường Nhật Bản với giá trị XK đạt trên 2,2 tỷ USD (chiếm 6,8%) và XK nhóm sản phẩm gỗ lớn nhất (chiếm 43,0% giá trị XK NLTS); thứ 4 là thị trường Hàn Quốc với giá trị XK đạt trên 1,4 tỷ USD (chiếm 4,3%) và XK nhóm sản phẩm gỗ lớn nhất (chiếm 44,2% giá trị XK NLTS);
Bộ NN&PTNT cho biết, trong các tháng cuối năm Bộ sẽ phối hợp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế, thúc đẩy XK.
Cụ thể,thúc đẩy mở cửa thị trường nông sản với các thị trường Peru, Úc, Braxin, Trung Quốc, Hoa Kỳ, ASEAN, Nga, Séc… trong khuôn khổ hợp tác nông nghiệp;
Hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản (nhãn, thạch đen, vải, nhãn, xoài, khoai lang, ớt… nông sản đang vào vụ thu hoạch) đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường EU, Anh, Trung Quốc,…
Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành và cơ quan thương vụ tại nước ngoài nắm bắt thông tin thị trường, thông tin kịp thời đến địa phương, doanh nghiệp các cảnh báo, quy định mới của thị trường xuất khẩu; các thông tin quy định về hạn ngạch đối với các mặt hàng nông sản thực thi Hiệp định EVFTA và UKVFTA.