Chùa Bà Đá còn hay được gọi là Linh Quang Tự, chùa tọa lạc tại số 3 phố Nhà Thờ, Hàng Trống, Hoàn Kiếm, Hà Nội, cách khu vực hồ Hoàn Kiếm chỉ 100m. Chùa Bà Đá là một trong bốn ngôi chùa Bà cổ kính bậc nhất thủ đô, thu hút đông đảo các tăng ni phật tử và du khách gần xa tới tham quan và hành hương.
Theo những văn tự, bia đá được truyền lại, thuở khởi nguyên, ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý, vào năm Bính Thân (1056) với tên gọi chùa Sùng Khánh. Thế rồi, thời gian trôi đi, trải qua biết bao bãi bể nương dâu, đến thời vua Lê Thánh Tông, chùa Bà Đá chỉ còn lại là một am nhỏ.
Khi người dân đào đất xây tường đã phát hiện một tượng bằng đá giống hình người phụ nữ, thấy sự lạ, người dân cho rằng đó là bậc Tiên Thánh giáng, bèn tu bổ bàn thờ, xây dựng chùa ngói để thờ phụng. Nhưng rồi, pho tượng đá này mất tích.
Phải đến 3 thế kỷ sau, vào cuối thời Lê Trịnh (1767 - 1782), khi ngôi chùa được tu bổ lại, tường cứ xây lên lại đổ, người ta đào sâu xuống nữa thì tìm thấy pho tượng đá. Chính vì vậy, người ta cho rằng tượng đá này linh thiêng. Sau khi ngôi chùa hoàn thành, nhiều người tìm đến chiêm bái. Từ ấy, dân gian cũng gọi đây là chùa Bà Đá.
Trải qua thời gian dài tồn tại, qua những thăng trầm đổi thay của lịch sử, ngôi chùa đã nhiều lần trùng tu, sửa chữa vào thời Nguyễn và những năm gần đây. Công trình kiến trúc của chùa được bố cục theo kiểu “nội công ngoại quốc”, các toà nhà được gắn kết với nhau thành một thể thống nhất.
Trên cổng đề tên chùa được đắp nổi bằng quốc ngữ, hai bên là đôi câu đối chữ Hán. Sở dĩ cổng chùa nhỏ như vậy là do phần đất của chùa khi xưa đã bị quy hoạch. Bước qua cổng chùa, du khách sẽ cảm nhận được mùi hương trầm phảng phất trong không gian. Vẻ yên tĩnh trầm mặc khiến ngôi chùa cổ nghìn năm tuổi như tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Trong chùa có những hạng mục chính như tiền đường, thượng điện thờ Phật, nhà thờ Tổ, thờ Mẫu.
Cụ thể, nhà Tiền đường gồm 3 gian, 2 chái, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Nội thất 4 hàng chân cột đỡ mái, các cột gỗ được đặt trên các chân tảng bằng đá mịn. Bộ khung đỡ mái gồm 4 bộ vì kèo được làm kiểu “giá chiêng, hạ kẻ bẩy”. Phía trước mở 7 cửa bức bàn kiểu “thượng song, hạ bản”, nền nhà lát gạch nung đỏ.
Tòa Trung đường được xây nối liền với Tiền đường, mái giọt tranh của hai tòa nhà này nối với nhau bằng hệ thống máng tôn có kích thước lớn. Tòa Trung đường có kích thước, kiểu dáng tương tự tòa Tiền đường. Thượng điện gồm 5 gian, 1 chái, xây chạy dọc về phía sau. Bộ khung đỡ mái tòa Thượng điện có một đầu ăn mộng với gian giữa nhà Trung đường. Nội thất 5 hàng chân cột gỗ đỡ mái, với 6 bộ vì kèo gỗ làm kiểu “giá chiêng, hạ kẻ”, mái lợp ngói, nền lát gạch đỏ.
Hai nhà tả, hữu hành lang, mỗi tòa 9 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói “sông Cầu”. Nhà thờ Tổ và thờ Mẫu có 5 gian, 2 chái, ở phía sau Thượng điện, xây chạy ngang, hai hồi nhà nối tiếp với hai nhà tả, hữu hành lang thành khối kiến trúc khép kín.
Ngoài ra, bộ sưu tập di vật văn hóa của chùa khá phong phú, đa dạng về chất liệu và loại hình. Trong đó tiêu biểu là tám tấm bia đá niên hiệu thời Nguyễn, một bia niên hiệu Tự Đức 3 (1850) ghi sự tích và việc trùng tu, sửa chữa các công trình kiến trúc của chùa. Hai quả chuông đồng đúc năm Tự Đức 26 (1873) và năm Tự Đức 34 (1881), một khánh đồng niên hiệu Thiệu Trị 2 (1842). Hai tượng tròn gồm 29 pho, trong đó 26 pho tượng Phật, tượng Mẫu, 2 pho tượng Tổ và một pho tượng “Bà Đá” tạc bằng gỗ giống như tượng Thánh Mẫu.
Những pho tượng của chùa được tạo tác công phu và sơn son thiếp vàng lộng lẫy, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 19, 20. Bên cạnh đó, chùa còn lưu giữ 19 câu đối sơn son thiếp vàng, 10 tấm nghi môn chạm hình rồng, hoa lá và hai bức cuốn thư chép thơ, hai bức cuốn thư chạm nổi hình “cúc, lão”, một bức phù điêu chạm nổi 14 hình tượng nhân cách cùng nhiều đồ thờ tự khác.
Ngày nay, chùa Bà Đá là điểm tham quan lý thú đối với các du khách trong và ngoài nước, là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nghệ thuật, kiến trúc, lịch sử - văn hoá. Chùa Bà Đá được UBND Thành phố Hà Nội xếp hạng Di tích Kiến trúc nghệ thuật ngày 23/5/2005.
Những ngày đầu xuân năm mới, nhiều người đã nô nức tìm đến chùa để cầu bình an, may mắn.