Giải pháp nào thúc đẩy thúc năng suất lao động tại Việt Nam?

(CL&CS) - Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, qua các phiên thảo luận về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cũng như các phiên chất vấn, nhiều đại biểu Quốc hội bày tỏ quan tâm đến vấn đề năng suất lao động. Các chuyên gia cho rằng, để hòa nhịp với xu hướng thay đổi của kinh tế thế giới, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, cùng toàn bộ hệ thống chính trị cần thấm nhuần nhận thức về tầm quan trọng của việc nâng cao năng suất lao động.

Năng suất không phải là tất cả, nhưng trong dài hạn, năng suất gần như là tất cả!

Năng suất lao động là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp, có ý nghĩa quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tăng năng suất lao động là mục tiêu hàng đầu mà các quốc gia trên thế giới đang hướng đến để thoát khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Ý nghĩa của tăng năng suất lao động đối với tăng trưởng kinh tế càng trở nên quan trọng hơn khi các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, tài nguyên trở nên khan hiếm, nguồn lao động đang bị ảnh hưởng do xu thế già hóa dân số trong tương lai.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh khốc liệt giữa các nền kinh tế, chỉ có nâng cao năng suất lao động mới có thể đứng vững và phát triển kinh tế đất nước nhanh và bền vững. Nói về tầm quan trọng của năng suất lao động, Paul Robin Krugman - Nhà kinh tế học người Mỹ, đạt giải Nobel kinh tế đánh giá: “Năng suất không phải là tất cả, nhưng trong dài hạn, năng suất gần như là tất cả!”.

Năng suất lao động là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá hiện hành ước tính đạt 188,1 triệu đồng/lao động. Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2022 tăng 4,81%. Năm 2022, năng suất lao động của Việt Nam theo GDP danh nghĩa ước tính vào khoảng 7.398 USD/ lao động. Nếu tính theo sức mua tương đương, năng suất lao động của Việt Nam ước tính vào khoảng 21.860 USD/lao động. Trong thập kỷ qua, năng suất lao động của Việt Nam được đánh giá là có tốc độ tăng cao nhất trong các nước ASEAN. Tính theo sức mua tương đương (PPP 2011), năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2010-2020 tăng bình quân 5,0%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Singapore (2,4%/năm); Malaysia (2,1%/năm); Thái Lan (3,7%/năm); Indonesia (2,7%/năm); Philippines (2,7%/năm); Brunei (giảm 1,2%/năm).

Với những nỗ lực cải thiện năng suất trong thập kỷ qua đã giúp cho Việt Nam những kết quả đáng khích lệ về tăng trưởng năng suất, tạo cơ hội thu hẹp dần khoảng cách về mức năng suất so với các nước có nền kinh tế tiên tiến hơn. Nhưng trên thực tế, mức năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở nhóm các nước có mức gần như thấp nhất trong khối. Tính theo GDP danh nghĩa, năng suất lao động của Việt Nam năm 2022 đạt được 7.398 USD/người, bằng 1/15 của Singapore, 1/8 của Nhật Bản, Hàn Quốc. Tính theo PPP 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2022 bằng 13,3% mức năng suất của Singapre; 37,5% của Malaysia; 68,4% của Thái Lan; 86,2% của Indonesia. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam còn nhiều thách thức rất lớn trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước ASEAN.

Các nhân tố chủ yếu tác động đến năng suất lao động của Việt Nam

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, tại Hội nghị Cải thiện Năng suất lao động quốc gia ngày 8/7/2019,đã chỉ rõ 04 nhân tố chủ yếu tác động đến năng suất lao động.

Một là, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế đã thu được một số kết quả, nhưng dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm và chưa thực sự hợp lý.

Thực trạng ngành nông nghiệp là ví dụ điển hình cho nhận định trên.Cụ thể, dù chỉ đóng góp khoảng 16% GDP, nhưng lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn (hơn 42% tổng số lao động toàn xã hội). Ngoài ra, những hạn chế về hiệu suất lao động, hiệu quả sử dụng thời gian lao động trong ngành nông nghiệp, bất cập về hạn điền, chuyển nhượng đất, hiệu quả sử dụng đất thấp... cũng trở thành điểm nghẽn đối với việc gia tăng NSLĐ của khu vực nông nghiệp.

Hai là, các hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ở nước ta đã có bước phát triển nhưng năng lực và tiềm lực còn ở mức hạn chế.

Việt Nam có xếp hạng các chỉ số so với các nước trên thế giới mới chỉ ở mức trung bình hoặc trung bình thấp. Cụ thể: năm 2018, năng lực cạnh tranh Việt Namđứng thứ 77, đổi mới sáng tạo đứng thứ 82, trong đó hợp tác đa bên trong đổi mới sáng tạo đứng thứ 92, số bằng phát minh, sáng chế đứng thứ 89, tăng trưởng của các công ty đổi mới sáng tạo đứng thứ 90...

Ba là, đất nước đang ở giai đoạn cuối của thời kỳ dân số vàng, lực lượng lao động đông đảo về số lượng nhưng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, thiếu nhân lực chất lượng cao, có kiến thức, kỹ năng trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao.

Bốn là, số lượng doanh nghiệp phát triển nhanh song hiệu suất, hiệu quả quản trị doanh nghiệp còn thấp, doanh nghiệp khu vực FDI có NSLĐ cao nhưng chậm lan tỏa đến khu vực doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nhà nước có lượng tài sản lớn nhưng hiệu quả sử dụng còn hạn chế, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp song phần lớn có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa, năng lực liên kết yếu.

Năng suất lao động là giải pháp quan trọng hàng đầu đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững

Giải pháp nào thúc đẩy thúc năng suất lao động tại Việt Nam?

Nhận thức được tầm quan trọng của nâng cao năng suất lao động, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới với những mục tiêu và khát vọng phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045, trong đó, một trong ba đột phá chiến lược là tiếp tục phát triển nguồn nhân lực, đẩy nhanh tốc độ tăng năng suất lao động để hướng tới phát triển bền vững, nâng cao lợi thế cạnh tranh quốc gia.

Các chuyên gia cho rằng, để hòa nhịp với xu hướng thay đổi của kinh tế thế giới, để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, cùng toàn bộ hệ thống chính trị cần thấm nhuần nhận thức về tầm quan trọng của việc nâng cao năng suất lao động. Phải coi nâng cao năng suất lao động là giải pháp quan trọng hàng đầu đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững trong một thế giới đầy bất trắc, khó lường, trật tự kinh tế thế giới lỏng lẻo.

Theo đó, Chính phủ cần khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về nâng cao năng suất lao động Việt Nam. Định kỳ đánh giá, bổ sung, cập nhật Chiến lược này phù hợp với những thay đổi mau lẹ của kinh tế thế giới. Chủ động dự báo các biến cố, xu hướng thay đổi của kinh tế thế giới; nhận diện, đánh giá tác động của những cơ hội và thách thức đến từ các thay đổi này đối với kinh tế nước ta. Không ai khác, mà chính là Chính phủ phải xác định được các yếu tố ngoại sinh tạo ra sự đổi mới để từ đó chủ động đưa ra các giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức giữ ổn định vĩ mô, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững.

Cạnh tranh lành mạnh trên tất cả các thị trường là nền tảng quan trọng để nâng cao năng suất lao động. Vì vậy, Chính phủ cần thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế nhanh hơn, hiệu quả hơn để khơi thông và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước. Đặc biệt, Chính phủ cần hoàn thiện đồng bộ môi trường pháp lý để tất cả các loại thị trường đều phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường hàng hoá; thị trường nhân tố và thể chế quản trị doanh nghiệp. Xoá bỏ mọi độc quyền dưới bất kỳ hình thức nào diễn ra trên thị trường hàng hoá và thị trường nhân tố.

Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, để nâng cao năng suất lao động, ngoài quản lý nhà nước, Bộ trưởng cho rằng có 4 vấn đề quan trọng.

Thứ nhất là công nghệ đổi mới sáng tạo để tăng năng suất lao động.

Thứ hai là vốn, nhiều vốn và vốn chất lượng cao rất quan trọng, sẽ giúp các quốc gia xây dựng nền tảng sản xuất và chế biến.

Thứ ba là nguồn nhân lực chất lượng cao, đây là yếu tố nền tảng, nhất là về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và ý thức tổ chức của người lao động.

Thứ tư là kinh nghiệm cho thấy các quốc gia phát triển, năng suất lao động cao thường là tỷ lệ lực lượng lao động phi chính thức thấp. 

Trong đó, đề án về nâng cao năng suất lao động giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ; về nâng cao năng suất và đặc biệt là đào tạo chất lượng cao giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì; về hệ thống đào tạo trường nghề và giáo dục giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện.

Thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tập trung vào 5 giải pháp căn bản: tuyên truyền, nâng cao nhận thức để tạo sự ủng hộ của xã hội, các phụ huynh, người học; sắp xếp lại quy hoạch mạng lưới; chuyển đổi cơ cấu lao động; phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu thị trường; kết nối doanh nghiệp và đào tạo kép, mỗi doanh nghiệp phấn đấu trở thành một trường nghề, đây là kinh nghiệm của các nước phát triển, đặc biệt là các nước có trình độ cao như Đức.

Nâng cao năng suất lao động phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực, kỹ năng và chuyên môn của người lao động. Vì vậy, giáo dục cho người dân, mở rộng độ bao phủ, phổ cập giáo dục và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có định hướng ưu tiên đào tạo các tài năng cá biệt và các kỹ năng mới nổi phải là quốc sách hàng đầu đối với Việt Nam trong giai đoạn phát triển.

TIN LIÊN QUAN