Giải pháp cho gạo Việt xuất khẩu

(NTD) - Đã từng là một trong những quốc gia đứng đầu về xuất khẩu gạo nhưng Việt Nam lại bị thế giới “từ chối” vì chất lượng gạo không phù hợp.

Gạo Việt đang dần “hết thời”?

Trong thời kỳ đỉnh cao, Việt Nam từng giữ “ngôi vương” trong xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, vị trí này đang bị mất dần vào tay các “đối thủ” khác.

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tháng 9/2016, lượng gạo xuất khẩu ước đạt 396.000 tấn với giá trị đạt 176 triệu USD. Lũy kế 9 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo ước đạt 3,76 triệu tấn trị giá 1,69 tỷ USD đã giảm 16,4% về khối lượng và giảm 12,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Nếu không có đột phá về thị trường, sản lượng 6,5 triệu tấn theo kế hoạch sẽ giảm mạnh còn khoảng 5,7 triệu tấn theo đường chính ngạch. Như vậy, có thể nói áp lực tìm đầu ra cho hạt gạo rất lớn trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt.

Không chỉ khó kiếm đầu ra, gạo Việt Nam còn phải đối diện với nhiều khó khăn bị một số nước từ chối. Cụ thể, một số lô gạo Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đã bị trả về, khiến nhiều chuyên gia trong ngành lo lắng về nguy cơ gạo Việt bị liên lụy khi xuất khẩu vào Mỹ, thậm chí có nguy cơ bị cấm nhập khẩu.

Tương tự, gạo Việt xuất khẩu vào thị trường EU cũng giảm dần từ 24.000 tấn xuống còn 20.000 tấn năm 2014 và 18.000 tấn năm 2015. Đặc biệt, khi FTA Việt Nam - EU bắt đầu có hiệu lực từ năm 2016, gạo Việt xuất khẩu vào thị trường này còn giảm mạnh hơn, kể cả khi có quota tới 80.000 tấn.

Còn đối với thị trường cao cấp như Nhật Bản, từ cuối năm 2013 đến nay, Việt Nam cũng không xuất khẩu được hạt gạo nào. Việc đưa thương hiệu gạo Việt ra thế giới là vô cùng khó khăn. Như thị trường Singapore, luật lệ quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và gu tiêu dùng rất khác Việt Nam. Tiêu chí chọn gạo của họ cũng khác, người dân Singapore ưa dùng loại gạo dẻo, hạt tròn, chỉ cần dễ nấu, không dính cơm.

Tương tự với các thị trường như Trung Quốc, vị trí thứ nhất thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam với 36% thị phần, đã giảm còn 21,6% về khối lượng và giảm 11,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Các thị trường truyền thống khác cũng giảm mạnh là Philippines (giảm 66,4%), Malaysia(54,5%), Singapore (36,3%)...

Lo ngại về việc gạo Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ bị trả về, GS.TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, khẳng định: “Sự cố sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của gạo Việt Nam đối với thị trường xuất khẩu”.

Việc gạo Việt bị các nước trả về có lẽ là câu chuyện không còn mới nữa. Chỉ có điều thông tin này có được công bố rộng rãi hay không thôi. Nhiều năm qua, các doanh nghiệp và ngành nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long đã hiểu và thấy được nhiều nguy cơ về tình trạng nông dân lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách vô tội vạ.

Bà Lê Thị Tú Anh, Chủ tịch Hội đồng Quản trị CTCP Nông nghiệp GAP, cho rằng là một nước nông nghiệp và cũng là nước nằm trong top đầu xuất khẩu gạo trên thế giới nhưng chất lượng gạo Việt Nam kém, cộng thêm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật quá mức cho phép làm cho gạo thơm Việt Nam xuất khẩu với giá thấp và chỉ xuất được qua các thị trường dễ tính như Trung Quốc, Hồng Kông...

Không chỉ vậy, nhược điểm của ngành nông nghiệp còn ở chỗ nông dân tự hào với kinh nghiệm cổ truyền nên nhiều khi đã lạc hậu. Còn các doanh nghiệp thì không rõ nguồn gốc nguyên liệu, không thương hiệu, công nghệ lạc hậu và sự cạnh tranh lẫn nhau, không chịu liên kết để tạo thị trường.

Một thực tế đáng buồn nữa là mặt hàng gạo bán lẻ cho người tiêu dùng Việt Nam có rất nhiều nhãn hiệu không rõ nguồn gốc. Các sản phẩm gạo phổ biến trên thị trường hiện nay lại là các thương hiệu gạo của Thái Lan, Campuchia và Nhật Bản.

Gạo Việt Nam đang bị thế giới "từ chối" vì chất lượng không đảm bảo.

Cần sớm tháo gỡ khó khăn

Để tháo gỡ khó khăn cho gạo và nông sản Việt, GS.TS Võ Tòng Xuân cho rằng: “Giải pháp thuận lợi nhất là tổ chức gắn Nhà nông với nhà nông trong hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới hoặc Cụm liên kết nông nghiệp kỹ thuật cao và gắn hợp tác xã nông nghiệp với Nhà doanh nghiệp trong một cơ chế theo chuỗi giá trị đến thành phẩm gạo ngon và sạch”.

Trong bối cảnh nhiều thách thức như thế, phía doanh nghiệp buộc phải thay đổi. Các doanh nghiệp phải kiểm soát được quy trình sản xuất lúa gạo bảo đảm mới được thu mua. Gạo đạt chuẩn mới được xuất khẩu. Bởi hiện nay, người tiêu dùng luôn đòi hỏi về vệ sinh an toàn thực phẩm cao hơn, sản phẩm phải minh bạch thông tin, rõ ràng nguồn gốc... Chỉ có thay đổi, thích ứng thì doanh nghiệp sản xuất gạo mới có thể tiếp tục trụ hạng được.

Không dừng lại ở việc hiện đại hóa khâu chế biến, bảo quản... mà đối với thị trường xuất khẩu, ngành gạo cũng cần thực hiện một số giải pháp như quy hoạch vùng trồng lúa xuất khẩu chính ở Đồng bằng sông Cửu Long, khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển vùng nguyên liệu bằng cách liên kết với nông dân. Đồng thời, chuyển từ buôn bán tiểu ngạch sang chính ngạch với các nước chung biên giới, xây dựng kho ngoại quan tại các thị trường chủ lực... Quan trọng là cũng cần đẩy mạnh hoạt động tiếp thị cho sản phẩm gạo Việt Nam.

Liên quan đến vấn đề này, Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thu mua, tiêu thụ lúa gạo hàng hóa trong bối cảnh tình hình xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm 2016 còn gặp nhiều khó khăn.

 Mai Trinh

 

 
Nên đọc