Chú trọng nâng cao chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương

(CL&CS) - Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (viết tắt là chỉ số PII) được xây dựng nhằm cung cấp bức tranh thực tế, tổng thể về hiện trạng mô hình phát triển KT-XH dựa trên khoa học, công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST) của từng địa phương. Thông qua đó, các địa phương có căn cứ và bằng chứng về điểm mạnh, điểm yếu, các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển KT-XH. Từ đó, có các định hướng, giải pháp phù hợp cho phát triển KT-XH của địa phương.

Những năm qua, kết quả chỉ số GII của Việt Nam luôn có sự cải thiện tích cực. Việt Nam liên tục được tổ chức WIPO ghi nhận là quốc gia có điểm số cao hơn nhiều so với mức trung bình của các nước cùng nhóm thu nhập. Năm 2023, Việt Nam xếp thứ 46, tăng 02 bậc so với năm 2022. Trong 10 năm qua, tính từ năm 2013, thứ hạng GII của Việt Nam tăng 30 bậc (từ vị trí 76 lên 46). Việt Nam liên tục duy trì vị trí dẫn đầu trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. 

Ở cấp địa phương, thực tế cho thấy, do chỉ số GII đánh giá ở cấp quốc gia nên nhiều số liệu thống kê ở cấp địa phương không có. Phương pháp đánh giá theo quy chuẩn quốc tế còn mới nên có những điểm không tương đồng với thực tiễn các địa phương của Việt Nam. Bên cạnh đó, do có sự khác biệt giữa các địa phương về quy mô KT-XH, dân số, đất đai, cơ cấu kinh tế, định hướng phát triển... nên các địa phương cần và phải lựa chọn mô hình phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST khác nhau, phù hợp với bối cảnh, điều kiện, đặc điểm riêng. Do đó, nhiều địa phương đã kiến nghị cần có bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương để có căn cứ khoa học và có số liệu minh chứng phục vụ công tác chỉ đạo điều hành phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST tốt hơn, sát với thực tiễn hơn.

Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII - Provincial Innovation Index) được Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng nhằm cung cấp bức tranh tổng thể về hiện trạng mô hình phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của từng địa phương.

Năm 2022 là năm đầu tiên bộ chỉ số được xây dựng thử nghiệm với 20 địa phương. Sau khi có kết quả thử nghiệm, Chính phủ đã giao Bộ Khoa học và Công nghệ "chính thức triển khai xây dựng Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương trên phạm vi toàn quốc từ năm 2023" (Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2023).

Bộ chỉ số PII được Bộ KH&CN chủ trì phối hợp với cơ quan, địa phương, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và các tổ chức liên quan xây dựng và tổ chức đánh giá thử nghiệm tại một số địa phương trên cả nước. Sau khi có kết quả thử nghiệm thành công, Bộ chỉ số PII được thực hiện thống nhất trên toàn quốc từ ngày 1/1/2023.

Khung chỉ số PII năm 2023 đã được thiết kế với 52 chỉ số, chia làm 7 trụ cột, bao gồm: đầu vào 5 trụ cột phản ánh những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH dựa trên KHCN và ĐMST, bao gồm: thể chế, nguồn nhân lực và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển của thị trường và trình độ phát triển kinh doanh.

Hình so sánh khung chỉ số GII năm 2023 và PII Việt Nam năm 2023.

Đầu ra 2 trụ cột phản ánh kết quả tác động của KHCN và ĐMST vào phát triển KT-XH, bao gồm: sản phẩm tri thức sáng tạo và công nghệ, tác động. Theo đó, các chỉ số về sở hữu trí tuệ (SHTT) là một trong các chỉ số thành phần quan trọng trong trụ cột sản phẩm tri thức sáng tạo và công nghệ - một trong hai trụ cột đầu ra ĐMST.

Các chỉ số PII liên quan trực tiếp tới SHTT gồm: số lượng đơn đăng ký bảo hộ sáng chế/10.000 dân; số lượng đơn đăng ký bảo hộ giải pháp hữu ích/10.000 dân; số lượng đơn đăng ký giống cây trồng/10.000 dân; số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu/10.000 dân; số lượng đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp/10.000 dân; số lượng chỉ dẫn địa lý đã được cấp giấy chứng nhận bảo hộ.

Nếu các chỉ số này được ứng dụng, khai thác có hiệu quả mới có thể mang lại giá trị và được tính là ĐMST. Vì vậy, số lượng sản phẩm cũng như đơn đăng ký được coi là đầu vào quan trọng cho ĐMST, số lượng đơn càng nhiều thì điểm số, thứ hạng chỉ số PII càng được nâng cao. 

Bộ chỉ số PII nhằm cung cấp bức tranh thực tế, tổng thể về hiện trạng mô hình phát triển KT-XH của từng địa phương, qua đó cung cấp căn cứ và bằng chứng về điểm mạnh, điểm yếu, về các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST của từng địa phương, giúp cho các cấp lãnh đạo của địa phương có cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định, lựa chọn các định hướng, giải pháp phù hợp cho phát triển KT-XH của địa phương dựa trên KH,CN&ĐMST.

Với chính quyền các cấp, bộ chỉ số PII cung cấp các căn cứ về điểm mạnh, điểm yếu, các yếu tố tiềm năng và điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST của từng địa phương; làm cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng, thực thi hiệu quả các chính sách thúc đẩy, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động KH,CN&ĐMST; thúc đẩy thực hiện các sáng kiến phát triển KT-XH ở địa phương dựa trên KH,CN&ĐMST, tận dụng các thế mạnh và vượt qua các thách thức; cung cấp công cụ, kĩ thuật cho phép đánh giá, so sánh năng lực, kết quả hoạt động KH,CN&ĐMST giữa các địa phương cũng như chất lượng điều hành, quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST; góp phần nâng cao năng lực và kết quả hoạt động KH,CN&ĐMST quốc gia.

Đối với nhà đầu tư, kết quả đánh giá PII của địa phương sẽ là thông tin tham khảo hữu ích về môi trường đầu tư địa phương để đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp. Đối với khu vực nghiên cứu, bộ chỉ số PII cung cấp cơ sở dữ liệu toàn diện với hệ thống các chỉ tiêu đánh giá, có thể so sánh được qua thời gian và thúc đẩy các nghiên cứu khác. Bộ chỉ số PII cũng có ý nghĩa đối với cộng đồng các tổ chức quốc tế và nhà tài trợ để xem xét, cân nhắc các tài trợ và hoạt động có liên quan tại các địa phương ở Việt Nam.

TIN LIÊN QUAN