Trong từng giai đoạn lịch sử, giáo dục luôn gắn bó mật thiết với vận mệnh dân tộc, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng.
Từ những lớp Bình dân học vụ ban đầu đến công cuộc chuyển đổi số hiện nay, giáo dục Việt Nam đã không ngừng đổi mới, đặt nền móng vững chắc cho công cuộc kiến thiết và hội nhập quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hoè đứng hàng đầu thứ 2 từ trái sang.
Nhân dịp kỉ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục, nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo (28/8/1945 – 28/8/2025), Báo Nhà báo và Công luận trích lược một số nội dung về giáo dục kể từ ngày thành lập nước qua từng giai đoạn để thấy rõ nền giáo dục đã bền bỉ kiến tạo con người, dựng xây đất nước, tạo nên những kì tích trong thời đại Hồ Chí Minh.
1945 – 1954: Khởi đầu trong kháng chiến
Ngay sau khi giành độc lập, đất nước đối diện muôn vàn khó khăn: thù trong giặc ngoài, kinh tế kiệt quệ, hơn 90% dân số mù chữ. Chính phủ xác định “diệt giặc dốt” là nhiệm vụ cấp bách, phong trào Bình dân học vụ đã huy động toàn dân, xóa mù cho hàng triệu người.
Bác Hồ quan sát một cháu thiếu nhi tập đánh vần khi đến thăm lớp học vỡ lòng Đình Thạch Khối ở phố Hàng Than, Hà Nội (31/12/1958)
Nền giáo dục mới ra đời dựa trên ba nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Năm 1950, cuộc Cải cách giáo dục lần thứ nhất được triển khai, xây dựng hệ thống phổ thông 9 năm, thống nhất chương trình và sách giáo khoa, gắn học tập với kháng chiến.
Trong vùng tạm chiếm, chính quyền thực dân tìm cách nô dịch thanh niên, nhưng phong trào học sinh – sinh viên yêu nước vẫn sục sôi. Giáo dục đã thực sự trở thành một mặt trận kháng chiến, đào tạo thế hệ “công dân kháng chiến”, góp phần vào thắng lợi Điện Biên Phủ năm 1954.
1954 – 1975: Hai miền, hai nền giáo dục
Đất nước chia cắt, miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam nằm dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa.
Tại miền Bắc, cuộc Cải cách giáo dục 1956 hình thành hệ thống phổ thông 10 năm, chú trọng đào tạo toàn diện. Phong trào “Hai tốt” được phát động, các trường đại học phát triển nhanh, nhiều sinh viên được gửi đi học tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến chống Mỹ, trường lớp sơ tán nhưng giáo dục vẫn duy trì, đảm bảo “học không gián đoạn”.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình trò chuyện cùng các giáo viên và học sinh Trường Lê Ngọc Hân, Hà Nội (ngày 15/9/1976)
Ở miền Nam, tồn tại song song giáo dục dưới chế độ cũ và hệ thống trường lớp cách mạng trong vùng giải phóng. Từ những lớp học bí mật ban đầu, mạng lưới trường học cách mạng phát triển mạnh, in ấn sách giáo khoa, đào tạo cán bộ, nuôi dưỡng tinh thần kháng chiến.
Đến năm 1958, miền Bắc cơ bản hoàn thành xóa mù chữ. Đây là bước ngoặt lớn, nâng cao dân trí và chuẩn bị nguồn nhân lực cho thống nhất đất nước.
1975 – 1986: Thống nhất và cải cách lần thứ ba
Sau ngày đất nước thống nhất, ngành Giáo dục đối diện khối lượng công việc khổng lồ: tiếp quản trường lớp miền Nam, cải tạo hệ thống cũ, mở rộng mạng lưới và phát động chiến dịch xóa mù chữ trên diện rộng.
Năm 1979, Nghị quyết 14-NQ/TW khởi động cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba. Điểm nhấn là việc thống nhất hệ thống phổ thông 12 năm, biên soạn bộ chương trình và sách giáo khoa chung, đề cao nguyên lý “học đi đôi với hành”.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại lễ tuyên dương và phát thưởng cho học sinh giỏi Thủ đô năm học 1981-1982 (ngày 01/6/1982)
Tuy nhiên, bối cảnh khủng hoảng kinh tế – xã hội khiến giáo dục gặp vô vàn khó khăn: ngân sách hạn hẹp, trường lớp tạm bợ, lương giáo viên không đủ sống. Dù vậy, ngành vẫn đạt thành tựu quan trọng: thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân trên cả nước, giữ vững quy mô trường lớp và tiếp tục nâng cao dân trí.
1986 – 2000: Đổi mới và xã hội hóa
Công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng năm 1986 cũng mở ra bước ngoặt cho giáo dục. Đường lối mới coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, khuyến khích xã hội hóa, đa dạng hóa loại hình trường lớp.
Đầu thập niên 1990, giáo dục từng bước thoát khỏi khủng hoảng, triển khai phổ cập tiểu học và xây dựng các đại học quốc gia, đại học vùng. Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991) và Luật Giáo dục (1998) tạo khung pháp lý cho toàn hệ thống.
Đến năm 2000, Việt Nam hoàn thành phổ cập tiểu học và xóa mù chữ, đồng thời chuyển sang phổ cập trung học cơ sở. Cơ sở vật chất được cải thiện nhờ các chương trình mục tiêu quốc gia, mạng lưới trường tư thục, dân lập phát triển mạnh, góp phần huy động nguồn lực xã hội.
2000 – 2025: Hội nhập và đổi mới căn bản, toàn diện
Bước vào thế kỷ XXI, giáo dục Việt Nam đứng trước yêu cầu mới: hội nhập quốc tế và thích ứng với kỷ nguyên số.
Đầu những năm 2000, trọng tâm là mở rộng quy mô, từng bước nâng cao chất lượng. Đặc biệt, Nghị quyết 29-NQ/TW (2013) xác định đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, chuyển từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất người học.
Luật Giáo dục 2019 cùng nhiều chính sách mới khẳng định giáo dục là nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ 2020, đại dịch Covid-19 đã buộc ngành chuyển nhanh sang dạy – học trực tuyến, mở ra cơ hội lớn cho chuyển đổi số.
Ngành Giáo dục tiếp tục kiên định mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo.
Giai đoạn này cũng ghi dấu nhiều thành tựu: tỷ lệ phổ cập mầm non 5 tuổi, tiểu học và THCS được duy trì; hệ thống đại học, cao đẳng hội nhập quốc tế sâu rộng; giáo dục STEM, trí tuệ nhân tạo và công nghệ số ngày càng lan tỏa.
Trải qua gần 80 năm, giáo dục Việt Nam đã đi một chặng đường dài: từ nhiệm vụ cấp bách “diệt giặc dốt” đến mục tiêu xây dựng một nền giáo dục hiện đại, nhân văn, công bằng, hội nhập và sáng tạo.
Mỗi giai đoạn đều để lại những dấu ấn riêng từ phong trào Bình dân học vụ, cải cách giáo dục, phổ cập tiểu học, đến đổi mới căn bản, toàn diện. Những thành tựu này không chỉ góp phần quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong từng giai đoạn, mà còn mở đường cho một nền giáo dục tương lai nơi tri thức, công nghệ và con người Việt Nam cùng hội nhập, phát triển bền vững.