Hiệp định VKFTA chính thức có hiệu lực từ ngày 20/12/2015. Là FTA thế hệ sau của FTA Hàn Quốc – ASEAN (Hiệp định AKFTA), do đó Hiệp định VKFTA đã tạo nên môi trường đầu tư thương mại rộng khắp. Không những xóa bỏ thuế quan về vật liệu trung gian, mỹ phẩm, bổ sung thêm nội dung về quyền sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử mà còn đặt ra quan hệ hợp tác sâu hơn về các lĩnh vực hai bên cùng quan tâm như công nghiệp, nông lâm thủy sản…
Hiệp định VKFTA là một FTA mang tính toàn diện bao gồm 17 Chương, 208 Điều, 15 Phụ lục và 01 Thỏa thuận thực thi quy định. Các nội dung chính của Hiệp định gồm: Thương mại hàng hoá, Thương mại Dịch vụ (bao gồm các Phụ lục về dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, di chuyển thể nhân), Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), Quy tắc xuất xứ, Thuận lợi hóa hải quan, Phòng vệ thương mại, Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), Thương mại điện tử, Cạnh tranh, Hợp tác kinh tế, Thể chế và Pháp lý.
Về cơ bản, các cam kết thuế quan trong Hiệp định VKFTA được xây dựng trên nền các cam kết thuế quan trong Hiệp định AKFTA, nhưng với mức độ tự do hóa cao hơn. Nói cách khác, Hiệp định VKFTA sẽ cắt giảm thêm một số dòng thuế mà trong Hiệp định AKFTA chưa được cắt giảm hoặc mức độ cắt giảm còn hạn chế.
Về quy tắc xuất xứ, Hiệp định VKFTA cho phép cộng gộp xuất xứ, nghĩa là nguyên liệu dù được sản xuất từ Việt Nam hay Hàn Quốc đều được coi là có xuất xứ trong quá trình tính toán Hàm lượng khu vực (RVC) để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định và vẫn áp dụng quy trình cấp chứng nhận xuất xứ thông qua một cơ quan có thẩm quyền do nhà nước quy định/ủy quyền như trong các FTA ký trước đây mà Việt Nam đang thực hiện.
Về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp, Hiệp định VKFTA khẳng định lại các cam kết tại Hiệp định WTO/TBT đồng thời đề ra các cơ chế hợp tác nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, tạo thuận lợi trong thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Cam kết về TBT trong Hiệp định VKFTA
Với mục tiêu tăng cường và thuận lợi hóa thương mại giữa các Bên thông qua việc tăng cường thực hiện Hiệp định TBT và đảm bảo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại.
Chương 6 về Hàng rào Kỹ thuật trong Thương mại của Hiệp định VKFTA quy định 11 điều gồm Mục đích, Khẳng định Hiệp định TBT, Phạm vi, Tiêu chuẩn quốc tế, Quy chuẩn kỹ thuật, Quy trình đánh giá sự phù hợp, Minh bạch hóa, Hợp tác chung, Trao đổi thông tin, Ủy ban về hàng rào đối với thương mại, Định nghĩa.
Về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật: Việc sử dụng tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị liên quan trong phạm vi quy định tại Điều 2.4 và 5.4 của Hiệp định TBT làm cơ sở cho quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp. Khi có yêu cầu bằng văn bản của Bên kia, mỗi Bên phải tích cực xem xét việc chấp nhận các quy chuẩn kỹ thuật được coi là tương đương của Bên kia, ngay cả trong trường hợp các quy chuẩn này khác biệt với các quy chuẩn của mình, miễn là các quy chuẩn này hoàn toàn đáp ứng với những mục tiêu của các quy chuẩn của mình.
Về quy trình đánh giá sự phù hợp, mỗi Bên sẽ cố gắng chấp nhận các kết quả của quy trình đánh giá sự phù hợp được thực hiện trên lãnh thổ của Bên kia với mục đích nâng cao hiệu quả, tránh trùng lặp và đảm bảo hiệu quả chi phí của việc đánh giá sự phù hợp. Về vấn đề này, mỗi Bên có thể lựa chọn nhiều cơ chế khác nhau, tùy theo hoàn cảnh của mình và các lĩnh vực cụ thể liên quan. Các phương pháp này có thể bao gồm nhưng không giới hạn:
- Thỏa thuận chấp nhận lẫn nhau các kết quả của quy trình đánh giá sự phù hợp đối với quy chuẩn kỹ thuật cụ thể được tiến hành bởi các tổ chức hoạt động trong lãnh thổ của Bên kia;
- Một Bên có thể áp dụng các quy trình công nhận hoặc chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp đủ điều kiện hoạt động trong lãnh thổ của Bên kia;
- Chỉ định các tổ chức đánh giá sự phù hợp hoạt động trong lãnh thổ của Bên kia;
- Một Bên thừa nhận các kết quả của quy trình đánh giá sự phù hợp được thực hiện trên lãnh thổ của Bên kia;
- Thỏa thuận tự nguyện giữa các tổ chức đánh giá sự phù hợp hoạt động trong lãnh thổ của mỗi Bên; và
- Tự công bố sự phù hợp của nhà cung cấp.
Về hợp tác chung, các Bên sẽ tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp với quan điểm để tăng sự hiểu biết lẫn nhau về các hệ thống tương đương và tạo điều kiện tiếp cận thị trường của mình. Đặc biệt, các Bên sẽ xác định, triển khai và thúc đẩy các sáng kiến thuận lợi hóa thương mại liên quan đến tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp dành riêng cho các vấn đề hay lĩnh vực cụ thể. Những sáng kiến này có thể bao gồm:
- Trao đổi thông tin về các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp;
- Hợp tác về các vấn đề pháp lý, chẳng hạn như minh bạch hóa, quảng bá quy chế thực hành tốt, hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, và sử dụng việc công nhận để đánh giá các tổ chức đánh giá sự phù hợp;
- Hỗ trợ kỹ thuật nhằm tuân thủ đầy đủ và hiệu quả các nhu cầu về đo lường phát sinh từ Chương này và Hiệp định TBT;
- Sử dụng các cơ chế để tạo thuận lợi cho việc chấp nhận các kết quả của quy trình đánh giá sự phù hợp được tiến hành trong lãnh thổ của Bên kia.
Mỗi Bên sẽ cố gắng xem xét có thiện chí đối với bất kỳ lĩnh vực cụ thể nào theo đề xuất của Bên kia để hợp tác sâu rộng hơn trong khuôn khổ của Chương 6 này, ví dụ: vật liệu xây dựng, mỹ phẩm, dược phẩm và thiết bị y tế, v.v...
Nội dung Chương 6 cũng quy định rất cụ thể các nội dung về minh bạch hóa, trao đổi thông tin thông qua Ủy ban về Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại.
Triển khai Hiệp định VKFTA
Hiệp định VKFTA ký kết ngày 05/5/2015. Ngày 20/8/2015 Chính phủ ra Nghị quyết số 60/NQ-CP phê duyệt Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc. Trên cơ sở đó, ngày 8/4/2016, Bộ Công Thương đã ký quyết định số 1375/QĐ-BCT thành lập phân ban Việt Nam trong Ủy ban Hỗn hợp thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc trong đó Bộ trưởng Bộ Công Thương là Chủ tịch phân ban, 1 Thứ trưởng là Phó Chủ tịch phân ban, 1 Ban Thường trực, 8 Tiểu ban chức năng và 2 Nhóm công tác. Một trong các chức năng của phân ban là hỗ trợ giải quyết các vấn đề, tranh chấp có thể phát sinh liên quan đến giải thích hoặc áp dụng Hiệp định VKFTA và tuyên truyền, phổ biến các nội dung liên quan đến việc thực thi Hiệp định VKFTA.
Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Tổng cục TCĐLCL) chủ trì tham gia Tiểu ban về hàng rào kỹ thuật trong thương mại trong Ủy ban Hỗn hợp thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc cùng với cơ quan đối tác là Cơ quan về Tiêu chuẩn và Công nghệ Hàn Quốc (KATS). Cho đến nay, Tiểu ban này đã họp bốn phiên. Hai bên đã thống nhất về điều lệ hoạt động và phối hợp giải quyết các vấn đề liên quan đến TBT, phía Hàn Quốc tận dụng diễn đàn này để nêu các vấn đề về TBT mà Hàn Quốc cho rằng gây bất lợi cho sản phẩm của Hàn Quốc nhập khẩu vào Việt Nam như Thông tư 58/2015/TTLT-BCT-BKHCN về thép, QCVN 101:2016/BTTT và dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 11/2016/TT-BYT về đấu thầu thuốc tại các cơ sở y tế công lập ... Gần đây, hoạt động của Tiểu ban có xu hướng hợp tác, trao đổi thông tin về các lĩnh vực mà hai bên quan tâm, thúc đẩy hiểu rõ hơn hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu trong thương mại hai nước.
Tổng cục TCĐLCL đồng thời thực hiện vai trò cảnh báo về các dự thảo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có thể làm ảnh hưởng đến xuất khẩu sang Hàn Quốc. Ví dụ, ngày 9/6/2020, trên cơ sở đề xuất củaVăn phòng TBT, Tổng cục Tổng TCĐLCL đã có văn bản cảnh báovề dự thảo đề xuất sửa đổi các tiêu chuẩn ghi nhãn đối với thực phẩm của Hàn Quốc gửi đến các Bộ ngành liên quan. Ngoài ra, cũng liên quan đến Hàn Quốc, thông tin về việc Bộ An toàn Thực phẩm và Dược phẩm Hàn Quốc (MFDS) ngày 29/5/2020 đã có thông báo về phương thức kiểm tra hồ sơ đối với cơ sở sản xuất thực phẩm xuất khẩu sang Hàn Quốc do diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 trên thế giới cũng được đăng tải trên trang thông tin của Tổng cục TCĐLCL.
Cho đến nay, các hoạt động về thừa nhận lẫn nhau các kết quả đánh giá sự phù hợp ở các cấp cũng được hai bên xem xét và đẩy mạnh. Theo đánh giá chung, các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau hay hình thức thừa nhận đơn phương hiện đang tạo thuận lợi cho phía nước nhập khẩu vào nước ta là chủ yếu. Cho đến nay, Bộ Thông tin và Truyền thông thừa nhận kết quả thử nghiệm của gần 80 tổ chức thử nghiệm của các nước trong đó có Hàn Quốc. Các đơn vị trực thuộc Tổng cục TCĐLCL đã và đang thúc đẩy hợp tác về thừa nhận lẫn nhau các kết quả đánh giá sự phù hợp trong lĩnh vực EMC, đèn LED, thiết bị chiếu sáng, thử nghiệm viên nén gỗ ...
Sau 5 năm thực thi VKFTA, thương mại hai chiều Việt Nam-Hàn Quốc liên tục tăng trưởng mạnh. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc trong giai đoạn 2016-2018 đạt mức tăng trưởng trung bình 26,9%/năm so với mức 24,3%/năm của giai đoạn 2010-2015.
Các mặt hàng Hàn Quốc và Việt Nam cam kết cắt giảm thuế đều có mức tăng trưởng tốt về kim ngạch xuất khẩu. Đối với Việt Nam là thủy sản, dệt may, đồ gỗ và sản phẩm gỗ, giầy dép các loại, xơ, sợi dệt các loại, rau quả. Đối với Hàn Quốc là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; nguyên phụ liệu dệt may, da giày; dây điện và cáp điện…
Năm 2018, tổng kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Hàn Quốc đạt hơn 65,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 18,24 tỷ USD; Việt Nam nhập khẩu từ Hàn Quốc 47,6 tỷ USD.
Năm 2019, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam (sau Trung Quốc và Hoa Kỳ)[1]với tổng kim ngạch thương mại song phương đạt trên 67 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu đạt 19,75 tỷ USD, nhập khẩu đạt 47,29 tỷ USD. Các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta sang Hàn Quốc như điện thoại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; dệt may…Một số mặt hàng xuất khẩu khác như gỗ, với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 500 triệu USD/năm, Hàn Quốc là một trong những thị trường quan trọng nhất của Việt Nam đối với việc tiêu thụ các mặt hàng đồ gỗ và sản phẩm gỗ.
Theo trang mạng Công Thương ngày 4/10/2018, hàng năm, kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ giữa hai quốc gia lên tới 500 - 600 triệu USD, với phần kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này chiếm 97 - 98% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu gỗ nguyên liệu vào Hàn Quốc, chiếm 65 - 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường này. Tuy nhiên, từ ngày 01/10/2018, Hàn Quốc sẽ áp dụng Luật Sử dụng gỗ bền vững sửa đổi năm 2017, đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam phải kiểm soát rủi ro nguồn nguyên liệu khi đưa hàng sang thị trường này. Từ năm 2020, luật này sẽ áp dụng đối với toàn bộ mặt hàng gỗ thuộc chương 44 và mặt hàng gỗ thuộc chương 94 của hệ thống mã HS theo quy định của Thông tư số 65/2017/TT-BTC.
Từ khi có hiệu lực, FTA Việt Nam - Hàn Quốc đã góp phần nâng cấp quan hệ kinh tế giữa hai nước. Với mục tiêu nâng kim ngạchlên 100 tỷ USD vào năm 2020, Việt Nam mong muốn thúc đẩy thương mại song phương theo hướng cân bằng. Việt Nam mong muốn Hàn Quốc tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để hàng nông thủy sản nhiệt đới, hàng dệt may, đồ gỗ, cao su... tiếp cận thị trường Hàn Quốc.
Doanh nghiệp Việt Nam cần phối hợp thế nào với các cơ quan liên quan để vượt qua rào cản kỹ thuật, đưa sản phẩm vào thị trường Hàn Quốc
Doanh nghiệp là động lực chủ yếu để thúc đẩy thương mai hai chiều. Để dần có thêm lợi thế tiếp cận thị trường Hàn Quốc, các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các bên liên quan để vượt qua rào cản kỹ thuật đối với thương mại.
Một là, các doanh nghiệp cần có sự chủ động liên hệ với các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu của Việt Nam, kịp thời cập nhật được cơ chế chính sách, quy trình, quy định từ phía Hàn Quốc từ đó có thể chuẩn bị trước thấu đáo, không bị tác động một cách tiêu cực đối với quá trình kiểm soát thị trường và giám sát hàng hóa nhập khẩu của Hàn Quốc. Các doanh nghiệp cần liên hệ với các cơ quan liên quan như Tổng cục TCĐLCL, Hải quan … để tìm hiểu về hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và các biện pháp đánh giá sự phù hợp đối với sản phẩm xuất khẩu vào Hàn Quốc, theo dõi sát với các cảnh báo về các quy định mới của thị trường Hàn Quốc thông qua trang web của Văn phòng TBT Việt Nam để kịp thời có ý kiến kịp thời ngay từ khi Hàn Quốc xây dựng dự thảo các quy định.
Hai là, về lâu dài, các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược tham gia vào quá trình xây dựng tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn quốc tế. Việc chủ động xây dựng tiêu chuẩn quốc tế tạo cơ hội cho sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế ngay trên sân nhà, tạo điều kiện bước vào thị trường thế giới dễ dàng hơn. Việc xây dựng tiêu chuẩn quốc tế giống như chúng ta xây dựng luật chơi chung cho thế giới. Hiện nay, Tổng cục TCĐLCL đang điều phối nguồn kinh phí để phần nào hỗ trợ các nhà khoa học có cơ hội được tham gia các phiên họp xây dựng tiêu chuẩn quốc tế của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO). Về lâu dài, cần có sự tham gia tích cực hơn nữa của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động tiêu chuẩn hóa, đồng hành cùng cơ quan tiêu chuẩn hóa và các nhà khoa học, tăng cường tính xã hội hóa trong hoạt động xây dựng tiêu chuẩn quốc gia nói riêng và xây dựng tiêu chuẩn quốc tế nói chung.
Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, để đáp ứng các nhu cầu xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn quốc gia đang thay đổi nhanh chóng và việc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cần dựa trên nhu cầu thị trường với sự tham gia tự nguyện và rộng rãi của các bên có lợi ích liên quan như các cơ quan quản lý, các tổ chức sản xuất-kinh doanh; các hội, hiệp hội chuyên ngành… thì yêu cầu xã hội hóa hoạt động xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn quốc gia ở Việt Nam là yêu cầu cần được nghiên cứu và triển khai một cách bài bản và thích hợp. Hiện có rất nhiều doanh nghiệp đang đi trước, đón đầu và có rất nhiều sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu sang nhiều thị trường khác nhau, do đó chúng ta phải nắm bắt được nhu cầu của doanh nghiệp Việt Nam để đẩy mạnh xã hội hóa công tác xây dựng tiêu chuẩn trong thời gian tới.
Ba là, từ bài học kinh nghiệm của các doanh nghiệp, hiệp hội Hàn Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tận dụng các diễn đàn như WTO/TBT, VKFTA, APEC để kiến nghị với Hàn Quốc về các vấn đề TBT nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các rào cản kỹ thuật, thương mại bất hợp lý ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.