Nằm ở đường Nguyễn Văn Thoại, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng có một ngôi nhà nhỏ, cũ kỹ. Nhiều người không biết, đây chính là nhà của Đại tá Doãn Mậu Hòe (1934-2023), nguyên Hiệu trưởng trường Văn hóa Quân khu V, Hiệu phó trường Quân sự Quân khu V. Đặc biệt, ông chính là thầy của 6 vị tướng nổi tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam: Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Hoàng Văn Thái, Thượng tướng Song Hào, Thượng tướng Phạm Ngọc Mậu, Trung tướng Lê Quang Đạo và Trung tướng Phạm Kiệt.
Những lớp học dã chiến tại mặt trận
Đại tá Doãn Mậu Hòe sinh ra và lớn lên ở mảnh đất nghèo Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, trong gia đình có cha và hai anh đều tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp, đuổi Nhật. Hồi nhỏ, có điều kiện được đi học chữ nên Đại tá được người làng nhờ dạy kèm cho các em nhỏ tuổi hơn. Sở thích làm thầy giáo của ông nảy mầm từ dạo đó. Nhưng đất nước chiến tranh, ước mơ được cầm súng cũng thôi thúc, ông vừa khóa áo lính nhưng vẫn theo đuổi ước mơ hồi nhỏ của mình.
Năm 1947, lúc vừa tròn 17 tuổi, ông tốt nghiệp lớp đệ tứ (tương đương trình độ lớp 12 hiện nay), và thi đậu vào trường Trung cấp Quế Sơn với số điểm tuyệt đối. Đúng ngày khai giảng niên khóa 1949-1950 thì anh giáo tương lai nhận được lệnh tổng động viên lên đường ra chiến trường. Theo tiếng gọi linh thiêng của sông núi, anh giáo làng xếp bút nghiên lên đường tòng quân đánh giặc.
Sau năm tháng quân trường vất vả tại Trường phân hiệu võ bị Trần Quốc Tuấn, ông được biên chế về chiến đấu tại đại đội 216, tiểu đoàn 50, trung đoàn 108 (Quân khu V) tham gia đánh Pháp, diệt phỉ ở mặt trận miền trung, Tây nguyên. Trận đánh đầu tiên của chàng lính trẻ là trận công đồn Công Long – Kon Tum năm 1951 của đại đội 216.
Kể lại những ngày tháng ác liệt của đạn bom, Đại tá chia sẻ; “Hơn ba ngày vây đồn, hầu hết anh em đã mệt mỏi, đói khát. Nhưng với quyết tâm công hạ đồn Pháp để lập công trong đợt đầu ra quân nên các chiến sĩ quyết tâm tập trung hỏa lực diệt các điểm phòng ngự”.
“Tôi cùng ba đồng chí nữa được lệnh nhận bộc phá vượt qua hàng dây thép gai để phá bốt có bố trí ổ châu mai. Cả ba xung phong băng qua lưới đạn của giặc, chạy nhanh về phía ổ châu mai thì một chiến sĩ bị trúng đạn hy sinh. Tôi và anh Chữ (người đồng đội của ông) tiếp cận được bốt, châm bộc phá ném vào trong nhưng do không kịp chạy ra ngoài nên anh Chữ bị thương nặng. Sau trận đánh đồn Công Long, đơn vị lính trẻ 216 được Quân khu V đặc biệt tuyên dương, khen thưởng” - Đại tá Doãn Mậu Hòe chia sẻ thêm.
Nhớ lại những trận đánh đã trải qua, ông Hòe hai mắt ngấn lệ nhớ về những đồng đội đã ngã xuống. Sau những trận chiến đấu ác liệt với kẻ thù, ông Hòe lại trở về làm anh giáo dạy văn hóa cho những đồng đội không có điều kiện đi học. Ông xin đơn vị được đứng ra tổ chức các lớp học dã chiến từ bậc xóa mù cho đến hết lớp 9 (cấp II) ngay tại mặt trận.
“Phần lớn anh em vì hoàn cảnh đất nước chiến tranh, loạn lạc nên đường học vấn dở dang. Tôi lựa chọn một số người có trình độ văn hóa phụ giúp việc giảng bài và chữa bài tập cho các khóa học. Từ mô hình lớp học dã chiến này, đơn vị đã nhân rộng ra toàn tiểu đoàn” – ông Hòe nhớ lại.
Dù đã mấy mươi năm trôi qua, nhưng ông Hòe vẫn nhớ mãi câu chuyện anh lính học thuộc lòng bài tập đọc giữa chiến trường: “Cứ tối đến, khi tiếng đạn nổ, pháo rền không còn nữa, các anh lại cắp sách vở đến nhờ thầy giáo Hòe giảng bài. Ròng rã hơn ba năm duy trì lớp học, ông đã xóa mù và nâng cao trình độ văn hóa cho gần 250 chiến sĩ trong đơn vị. Ngày đó cực khổ lắm, bút mực, phấn bảng… không có, phải dùng đất sét hoặc gạch đỏ thay phấn; nhiều khi lấy mảnh bom làm bảng đen, bãi cỏ làm lớp học, khó khăn là thế nhưng ai cũng quyết tâm học tập”.
Sáu học trò đeo quân hàng Tướng
Sau năm 1954, theo hiệp định Giơ ne vơ, ông tập kết ra Bắc, đóng quân tại Trung đoàn 108, Sư đoàn 305 và đảm nhận chức vụ chính trị viên tiểu đoàn. Năm 1957, ông được cấp trên cử đi học lớp “Bồi dưỡng giáo viên trợ lý văn hóa” để phục vụ cho công tác giáo dục trong quân đội lúc bấy giờ.
Kết thúc khóa học với tấm bằng loại ưu (điểm thi đạt kết quả tối đa), anh giáo trẻ được phân công cùng một số giáo viên khác dạy bổ túc văn hóa cho các đồng chí ở Tổng Cục chính trị, Hậu Cần, Tham mưu… Cũng trong thời gian này, ông vinh dự được Tổng cục chính trị chọn làm thầy giáo dạy văn hóa cho sáu vị tướng tại nhà riêng.
Ông bồi hồi xúc động “Khi ấy, tôi vừa tròn 25 tuổi chỉ mới mang cấp hàm thượng úy còn họ đã là các tướng lĩnh nổi tiếng. Nếu phải đứng lên giảng bài thì tôi biết cư xử sao cho phải lễ”. Gần một tuần lễ ngồi ngẫm nghĩ, ông băn khoăn không biết có nên nhận nhiệm vụ lần này hay không?
Day dứt mãi, cuối cùng ông cũng quyết định theo sự phân công, chuẩn bị giáo án để đến lớp nhận sáu học trò, cũng là sáu vị thủ trưởng cấp trên. Ngày đầu đến nhận lớp, ông hồi hộp, lo lắng, nói không thành tiếng. Trước mặt sáu vị tướng cùng nhiều cán bộ thuộc Tổng Cục chính trị, ông cùng một giáo viên nữa được giao trọng trách dạy các môn gồm: toán, lý, hóa… cho sáu vị tướng.Trong trí nhớ của Đại tá Doãn Mậu Hòe, mỗi người học trò của ông đều có một đức tính riêng, nhưng điểm chung là đều rất kiên trì, ham học hỏi. Họ luôn cố gắng làm bài đầy đủ dù bận trăm công nghìn việc.
Riêng Thiếu tướng Phạm Kiệt, sau quá trình tham gia cách mạng, bị tù đày, đánh đập nên trí nhớ của ông bị ảnh hưởng nhiều. Có khi thầy dạy chương trình lớp 3, lớp 4 nhưng ông học trước, quên sau. Hễ khi suy nghĩ căng thẳng, vị tướng này lại căng thẳng, đầu đau như búa bổ.
“Trong một lần kiểm tra bài cũ, anh Kiệt chỉ nhớ được mang máng nên tôi phải nhắc khéo, gợi mở. Khi trả lời hoàn chỉnh câu hỏi bài tập, anh ấy đã bật khóc òa, chạy đến ôm chầm lấy tôi và nói: 'Thầy thông cảm, tôi mừng quá, vì lâu nay cứ sợ cái đầu không còn học được nữa…’”, thầy Hòe kể lại.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thì được thầy nhận xét là người thông minh, khoa học nhất. Vị tướng này giỏi đều các môn khoa học và giỏi tiếng Pháp. Người thầy này tiết lộ: “Những lần đi công tác xa, công việc ngập đầu nhưng anh Thanh vẫn dẫn tôi theo để tranh thủ học, không bỏ lỡ giữa chừng. Các bài tập tôi ra về nhà làm, anh đều hoàn thành một cách xuất sắc. Có lần đi kiểm tra một đơn vị quân đội về muộn, hai thầy trò bày bàn học ngay giữa thao trường, học đến gần nửa đêm mới quay về trại. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã hoàn thành các chương trình hóa, lý cấp 3”.
Về Trung tướng Lê Quang Đạo, thầy Hòe ấn tượng nhờ biệt tài chế tạo mô hình mạch điện: “Tôi thường lấy mạch điện do anh Đạo lắp ráp, sáng chế để truyền dạy cho học sinh khác”.
Khóa học của 6 vị tướng kết thúc vào năm 1965. Sau khi không còn giảng dạy cho các thủ trưởng, thầy Hòe lại được phân công làm chủ nhiệm, trực tiếp dạy cho con trai của tướng Hoàng Văn Thái là Hoàng Quốc Hùng, Hoàng Quốc Trinh.
Sau này cứ vào ngày Nhà giáo Việt Nam, 6 vị tướng lại tổ chức ăn uống và mời người thầy trẻ này đến dự. Món quà họ tặng thầy khi thì là chiếc khăn mặt, kem đánh răng, lúc là hộp xà bông.
Trong sự nghiệp giảng dạy của mình, Đại tá Doãn Mậu Hòe đã dạy không biết bao nhiêu thế hệ học sinh, có cả những người cũng trở thành sĩ quan cao cấp. Nhưng với thầy giáo Hòe, ký ức về 6 người học trò năm xưa vẫn luôn rõ nét và sâu sắc nhất.
Thêm một điều đặc biệt về thầy Hòe, trong thời gian công tác, học tập ở miền Bắc, thầy đã từng vinh dự 3 lần được gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên là khi Người thăm Đại học Sư phạm Hà Nội (1958). Lần thứ hai là khi Bác đến nói chuyện với các cán bộ Trung, cao cấp ở Tổng cục chính trị (1962). Lần thứ ba là khi Chủ tịch Hồ CHí Minh đến một đơn vị văn công thăm các diễn viên gần khu Cầu Giấy (1964).
Lời Bác dạy năm nào mãi về sau thầy giáo Hòe vẫn luôn khắc ghi: “Có ba hạng người luôn được mang ơn và kính trọng. Một là các thầy/cô giáo dạy con em mình học, hai là thầy thuốc chữa bệnh cho con em mình và nhân dân, thứ ba là người cho mình mượn tiền gạo lúc khó khăn túng thiếu! Ba hạng người đó đều được tôn vinh!. Hôm nay các cháu đang là sinh viên, ngày mai là giáo viên, là người “Kỹ sư” tâm hồn. Vì thế, đã là người thầy là phải hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thầy dạy phải hơn trò về chữ và nghĩa, biết thương yêu học sinh, phải biết yêu người, yêu nghề, thật sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Khi ra trường các cô, chú phải quan hệ thật tốt với xã hội”.