Tham luận tại Đại hội XIII của Đảng với chủ đề “Phát huy vai trò, sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững ở tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái Đỗ Đức Duy cho biết:
Yên Bái là tỉnh miền núi thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc, nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc, diện tích tự nhiên gần 6.900 km2, dân số trên 82 vạn người với hơn 30 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 57,4%; dân cư nông thôn chiếm gần 80%, lao động nông nghiệp chiếm gần 60%. Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 2 huyện vùng cao đặc biệt khó khăn (30a) là huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải, với trên 90% đồng bào dân tộc thiểu sổ, chủ yếu là người Mông; có 173 xã, phường, thị trấn, trong đó có 80/150 xã đặc biệt khó khăn và 461/1.349 thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Cũng như các tỉnh miền núi phía Bắc, Yên Bái bước vào thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 với rất nhiều khó khăn, thách thức. Kết quả điều tra hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 32,21%, cao thứ 6 toàn quốc; trong đó phần lớn tập trung tại các địa bàn vùng cao, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, riêng tại 2 huyện 30a đều có tỷ lệ hộ nghèo trên 75%, thuộc vào nhóm các huyện nghèo nhất cả nước.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đó là: địa hình đồi núi chia cắt mạnh, thường xuyên chịu tác động của thiên tai; hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu đồng bộ, giao thông đi lại khó khăn; diện tích đất canh tác hạn chế, người dân còn thiếu tư liệu sản xuất; trình độ dân trí không đồng đều, chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật; đồng bào dân tộc còn nhiều hủ tục, tập quán, thói quen canh tác lạc hậu; hệ thống cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu đồng bộ, nguồn lực đầu tư hạn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, tư duy, nhận thức và công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền trong công tác giảm nghèo còn hạn chế, bất cập; một bộ phận người nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ nại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không có ý chí vươn lên thoát nghèo.
Quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo của Chính phủ về công tác giảm nghèo, những năm qua, Đảng bộ tỉnh Yên Bái luôn coi công tác giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở, với quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Với sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh, sau 5 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, Yên Bái đã kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống còn 7,04% (đứng thứ 12 toàn quốc, cải thiện 6 bậc so với đầu nhiệm kỳ). Bình quân giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ giảm hộ nghèo toàn tỉnh đạt 5,03%/năm (bằng 125% kế hoạch đề ra đầu nhiệm kỳ), riêng tại 2 huyện 30a giảm bình quân 8,32%/năm; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 7,66%/năm, cao hơn nhiều so với bình quân chung toàn tỉnh và của cả nước. Số xã đặc biệt khó khăn giảm 26,3%, còn 59 xã; số thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm 16,9% còn 383 thôn, bản.
Đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làmTheo ông Đỗ Đức Duy, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái, trong những năm qua, tỉnh Yên Bái đã thực sự đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp thiết thực, sáng tạo, hiệu quả, cụ thể:
Một là, quán triệt, triển khai nghiêm túc, kịp thời các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chương trình của Trung ương về giảm nghèo; cụ thể hóa thành chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ tỉnh (nhiệm kỳ 2015-2020), các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch công tác toàn khóa và hàng năm của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Để triển khai Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cho cả giai đoạn; hằng năm, Tỉnh ủy Yên Bái đều ban hành Chương trình hành động lãnh đạo thực nhiệm vụ chính trị của năm[2] và Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo trong năm[3] theo phương châm “giao nhiệm vụ, khoán sản phẩm”. Trong đó, giao chỉ tiêu giảm nghèo cho từng huyện, thị, thành phố; đồng thời, phân công nhiệm vụ, giao chỉ tiêu cụ thể cho từng đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp cấp tỉnh[4] phối hợp cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương để trực tiếp tuyên truyền, vận động, hỗ trợ, giúp đỡ từ 20-50 hộ nghèo/năm (có địa chỉ cụ thể) tại các xã đặc biệt khó khăn mà cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đó được phân công hỗ trợ, giúp đỡ thường xuyên.
Hai là, tích cực tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thay đổi căn bản về nhận thức và thống nhất trong hành động của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân, nhất là bà con đồng bào dân tộc thiểu số về công tác giảm nghèo.
Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cùng chung sức thực hiện mục tiêu giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới với các phong trào thi đua sâu rộng, lan tỏa trong toàn xã hội như: phong trào“Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thông mới, đô thị văn minh”, “Ngày thứ Bảy cùng dân” của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc; phong trào “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh, giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững” của Hội Nông dân; phong trào “Xây dựng gia đình năm không, ba sạch”, “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo” của Hội Phụ nữ; phong trào “Ba đến, ba cùng”, “Nâng cánh ước mơ” của Đoàn Thanh niên; phong trào “Cựu chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi” của Hội Cựu chiến binh…
Đặc biệt là phát huy vai trò chủ thể của người dân trong việc chủ động đóng góp công sức, trí tuệ, nỗ lực phấn đấu vươn lên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”, đưa việc thực hiện giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trở thành nhu cầu, là khát vọng của các tầng lớp nhân dân. Trong 2 năm 2019 và 2020, toàn tỉnh đã có 333 hộ nghèo có đơn tự nguyện xin thoát nghèo.
Ba là, triển khai hiệu quả các biện pháp hỗ trợ sinh kế cho các hộ nghèo, cận nghèo thông qua việc thực hiện lồng ghép chương trình giảm nghèo với chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình hỗ trợ có mục tiêu khác. Đồng thời với việc thực hiện các chính sách, dự án theo quy định của Trung ương, đã tập trung xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, bố trí ổn định dân cư, gắn với ban hành đồng bộ, kịp thời bộ cơ chế, chính sách, đề án riêng của tỉnh về hỗ trợ phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo theo hướng tích hợp, đồng bộ với các chính sách của Trung ương và phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương để phát huy tiềm năng, lợi thế và các yếu tố đặc thù của từng địa bàn, khu vực trong tỉnh.
Hỗ trợ tư liệu sản xuất, nhất là đất sản xuất, kết hợp với vận động, hỗ trợ nông dân vùng cao đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, xóa bỏ tập quán, thói quen canh tác lạc hậu, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng sất, chất lượng, giá trị của sản phẩm; đồng thời mở rộng liên kết sản xuất (theo nhóm hộ, thành lập tổ hợp tác, hợp tác xã), từng bước phát triển các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa tập trung theo chuỗi giá trị gồm các sản phẩm chủ lực, đặc sản, OCOP. Quan tâm phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác kết hợp với đẩy mạnh thu hút các thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Đến hết 2020, tỉnh Yên Bái có 75/150 xã đạt chuẩn nông thông mới, bằng 50% tổng số xã của toàn tỉnh[7], cao gấp 1,35 lần bình quân chung của vùng Trung du và miền núi phía Bắc (37%), gấp 1,85 lần bình quân chung khu vực Tây Bắc (27%), gấp 3 lần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020, trong đó có 12 xã đặc biệt khó khăn (chiếm 16%). Thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng gấp 2,0 lần so với năm 2015.
Bốn là, quan tâm đầu tư xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống đường giao thông[8], thủy lợi, cơ sở khám chữa bệnh (ưu tiên tuyến cơ sở), trường học, hạ tầng phát thanh, truyền hình, viễn thông, ưu tiên cho các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng, phát triển sản xuất, kết nối giao thương, nâng cao thu nhập và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu của người dân, nhất là các hộ nghèo, cận nghèo.
Năm là, chăm lo phát triển toàn diện văn hóa - xã hội, nhất là tại các huyện nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục vùng cao, giáo dục dân tộc[9]. Hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo, cận nghèo và các đối tượng chính sách xã hội, nâng cao năng lực hệ thống y tế cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. Bảo đảm chính sách an sinh xã hội, tích cực hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo. Chú trọng làm tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn để mở rộng sinh kế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động trên địa bàn tỉnh, nhất là lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, lao động khu vực nông thôn.
Sáu là, huy động, lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho giảm nghèo. Trong điều kiện của một tỉnh miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, nguồn lực đầu tư hạn hẹp, bên cạnh các nguồn lực của ngân sách nhà nước, tỉnh đã vận động, huy động đa dạng các nguồn lực xã hội hóa để tăng cường hỗ trợ cho công tác giảm nghèo.