Mục tiêu phát triển bền vững đất nước và nâng cao chất lượng sống của người dân
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành cho biết: Ngày 08/7/2024, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 611/QĐ-TTg.
Thứ trưởng Lê Công Thành phát biểu tại buổi lễ
Trong quá trình thực hiện Quy hoạch, Bộ TN&MT đã luôn nhận được sự quan tâm phối hợp tham gia xây dựng, đóng góp ý kiến của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các Bộ, Ban, ngành, Ủy ban ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các chuyên gia, nhà khoa học chuyên sâu trong lĩnh vực môi trường.
Thứ trưởng nêu rõ, để bảo vệ môi trường trong thời kỳ mới với bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thay đổi, Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia đã đặt ra các quan điểm về bảo vệ môi trường trong đó nhấn mạnh bảo đảm nguyên tắc xuyên suốt, không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế, tôn trọng quy luật tự nhiên, phát triển kinh tế với tư duy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp nhằm giảm thiểu chất thải phát sinh, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; bảo đảm tính mở và linh hoạt, phòng ngừa các vấn đề môi trường từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm và cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ các khu vực có yếu tố nhạy cảm môi trường nhằm hạn chế tác động đối với môi trường và sức khỏe con người.
Với các quan điểm đó, Quy hoạch xác định mục tiêu tổng quát là chủ động phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm và suy thoái môi trường; phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; ngăn chặn suy giảm và nâng cao chất lượng đa dạng sinh học, nhằm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của Nhân dân; định hướng thiết lập các khu bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; hình thành các khu xử lý chất thải tập trung cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh; định hướng xây dựng mạng lưới quan trắc và cảnh báo môi trường cấp quốc gia và cấp tỉnh; phát triển kinh tế - xã hội bền vững theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp, hài hòa với tự nhiên và thân thiện với môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Để thực hiện các mục tiêu được đặt ra, các nhiệm vụ chính cần được triển khai tập trung vào: Giảm thiểu tác động đến môi trường từ hoạt động phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy hiệu quả công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại; quản lý, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học và thúc đẩy các mô hình tăng trưởng bền vững.
Quy hoạch cũng đưa ra các giải pháp thực hiện, trong đó bao gồm: tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường; hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường thực thi chính sách, pháp luật và đầu tư tài chính cho bảo vệ môi trường; đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; thúc đẩy hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.
Thứ trưởng Lê Công Thành cũng cho biết, để thực hiện hiệu quả Quy hoạch thì cần thiết có sự chủ động, quyết tâm vào cuộc của các Bộ, ngành, địa phương và sự tham gia tích cực của các tổ chức, cộng đồng và mỗi người dân.
“Bộ TN&MT tin tưởng với sự chủ động, tích cực tham gia của các Bộ, ngành, các địa phương, doanh nghiệp và người dân, việc thực hiện Quy hoạch sẽ hoàn thành đúng tiến độ, đạt chất lượng, hiệu quả, thu được những kết quả quan trọng, tạo ra một không gian xanh, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước và nâng cao chất lượng sống của người dân”, Thứ trưởng cho biết.
Quy hoạch đặt ra với 04 nhóm đối tượng
Theo Bộ TN&MT, Quy hoạch xác định các mục tiêu cụ thể được đặt ra, với 04 nhóm đối tượng gồm:
Về phân vùng môi trường, định hướng phân vùng môi trường thống nhất trên phạm vi toàn quốc theo tiêu chí yếu tố nhạy cảm về môi trường dễ bị tổn thương trước tác động của ô nhiễm, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến sự sống và phát triển bình thường của con người và sinh vật.
Về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, định hướng bảo tồn giá trị tự nhiên và đa dạng sinh học, di sản thiên nhiên nhằm phục hồi và duy trì các hệ sinh thái tự nhiên, ngăn chặn xu hướng suy giảm đa dạng sinh học trên cơ sở củng cố, mở rộng, thành lập mới và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn thiên nhiên, hành lang đa dạng sinh học, khu vực đa dạng sinh học cao, cảnh quan thiên nhiên quan trọng, vùng đất ngập nước quan trọng và cơ sở bảo tồn để lưu giữ, bảo tồn và phát triển nguồn gen đặc hữu, nguy cấp, quý, hiếm, mẫu giống cây trồng và vật nuôi.
Đến năm 2030, tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, nâng cao chất lượng đa dạng sinh học; nâng tổng diện tích hệ thống khu bảo tồn trên phạm vi toàn quốc dự kiến đạt khoảng 6,7 triệu ha.
Các chỉ tiêu cụ thể đối với các đối tượng về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học được xác định trong Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Về khu xử lý chất thải tập trung, định hướng hình thành đồng bộ hệ thống khu xử lý chất thải tập trung cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh có quy mô công suất và công nghệ xử lý phù hợp, đáp ứng yêu cầu tiếp nhận, xử lý được toàn bộ lượng chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường và chất thải nguy hại phát sinh trên phạm vi cả nước, hạn chế tối đa lượng chất thải rắn chôn lấp trực tiếp, thực hiện phân loại chất thải tại nguồn, thúc đẩy hoạt động tái chế, tái sử dụng chất thải. Đến năm 2030, định hướng hình thành được tối thiểu 02 khu xử lý chất thải tập trung cấp quốc gia, tối thiểu 07 khu xử lý chất thải tập trung cấp vùng, tối thiểu 01 khu xử lý chất thải tập trung cấp tỉnh tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Về mạng lưới quan trắc và cảnh báo môi trường, định hướng thiết lập mạng lưới quan trắc chất lượng môi trường quốc gia tại các khu vực có tính chất liên vùng, liên tỉnh, xuyên biên giới, tập trung quan trắc tại các khu vực trọng yếu, khu vực có ý nghĩa quan trọng về bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; mạng lưới quan trắc và cảnh báo môi trường quốc gia phải có tính đồng bộ, liên kết với các hệ thống quan trắc môi trường cấp tỉnh. Định hướng cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thiết lập mạng lưới quan trắc chất lượng môi trường tại địa phương, tập trung vào các khu vực có nguy cơ ô nhiễm do các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, các khu vực chịu tác động của nhiều nguồn thải và các khu vực quan trọng về cảnh quan, sinh thái và môi trường trên địa bàn quản lý của các địa phương, hài hòa và có tính liên kết chặt chẽ với mạng lưới quan trắc và cảnh báo môi trường quốc gia để sử dụng hiệu quả nguồn dữ liệu quan trắc chất lượng môi trường trên cả nước.