Một cái nhìn lạc quan trong không khí đón xuân, ông cho rằng mục tiêu GDP của Việt Nam đề ra tăng trưởng 6,5% trong năm 2023 có thể đạt. Tuy nhiên, cần phải giải quyết cho được sự ổn định thị trường tài chính và bất động sản nhằm thúc đẩy sự phát triển tạo niềm tin cho người dân; đặc biệt là tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, trong đó có đầu tư công và chuyển đổi số của nền kinh tế…
Năm 2022 là một năm có nhiều biến động, theo ông những biến động này có bất ngờ không?
Trước hết, tôi cho rằng nếu xét tổng thể nền kinh tế qua các con số thì năm 2022 là năm thành công. Tôi có tham gia một số phiên họp của Chính phủ thì thấy nhờ chủ động trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài, kể cả dự báo tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nên Chính phủ đã chuẩn bị nhiều kịch bản ứng phó.
Tuy nhiên, chính sách ứng phó chậm. Đó là sự giảm sút một số ngành công nghiệp dẫn tới tình trạng lao động mất việc làm, nhất là ở khu vực phía Nam. Chúng ta có dự báo những bất ổn, có đề xuất tính toán sức chống chịu của nền kinh tế nhưng các giải pháp đồng bộ kịp thời thì chậm. Thậm chí triển khai gói hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau đại dịch cũng chậm. Tôi từng phát biểu tại diễn đàn kinh tế là “cấp cứu mà xe cấp cứu không dám chạy”.
Trước những biến động, ông đánh giá ra sao về việc điều hành của chúng ta khi rất nhiều chính sách lớn phải điều chỉnh, sửa đổi trong năm 2022?
Năm 2022, Chính phủ có một số việc lớn, trong đó Nghị quyết 11 về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội là bao trùm nhất.
Thứ hai, tôi đánh giá rất cao phiên họp bất thường của Quốc hội đầu tháng 1/2022 để giải quyết toàn bộ các dự án liên quan đầu tư công và cơ chế đặc thù với đường cao tốc phía Đông. Vừa qua, lĩnh vực giao thông mang tính đột phá, không phải vốn đầu tư mà là thể chế.
Thứ ba, dù gặp trở ngại khó khăn nhưng vấn đề chấn chỉnh thị trường bất động sản vừa qua, nếu xét ngắn hạn thì có vấn đề nhưng trung dài hạn thì không thể không làm, nếu để càng lâu càng phức tạp hơn.
Thứ tư, Việt Nam làm tốt hoạt động đối ngoại, tạo uy tín quốc gia. Việt Nam - Hàn Quốc đã nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất là “Đối tác chiến lược toàn diện”. Ngoài ra, nhiều hoạt động khác đã tạo vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Còn vấn đề chính sách tiền tệ, tôi cho rằng đó là điều hành linh hoạt.
So với các giai đoạn khó khăn, thử thách trước đây… những khác biệt của Việt Nam hiện nay là gì thưa ông?
Tôi đã tham gia hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia từ năm 1999 đến nay là 23 năm; từng tham gia đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, tham gia tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng… Khó khăn, thử thách hiện nay của Việt Nam hoàn toàn khác với các giai đoạn trước đây.
Thế lực kinh tế Việt Nam với quy mô 100 triệu dân đã khác hoàn toàn so với 10 năm trước. Sức mạnh hệ thống các tổ chức tín dụng được củng cố; dự trữ quốc gia, tiềm lực doanh nghiệp cũng vậy. Việt Nam là nước tham gia các hoạt động thương mại song phương, đa phương có thể nói nhiều nhất thế giới.
Những khó khăn hiện nay có một số điểm không giống giai đoạn trước. Chẳng hạn, giai đoạn 2008 - 2011 lạm phát khủng khiếp thường xuyên ở mức 18-19%, lãi suất hai con số mà tôi vẫn đề cập là hai con số “mập”, nợ xấu lên tới 17%.
Vậy thách thức hiện nay là gì? Thứ nhất, quy mô nền kinh tế đã lớn, thị trường lớn thì năng lực quản trị, cơ chế giám sát phải được nâng lên, không được như cũ. Thứ hai, chúng ta đã có chương trình mục tiêu rõ là xây dựng Chính phủ, xây dựng kinh tế số, tuy nhiên một số ngành có triển khai nhưng phát triển không đều, thậm chí một số ngành đi chậm. Thách thức này là mới so với giai đoạn trước đây.
Ngoài ra, điểm khác biệt của hiện tại so với giai đoạn trước đây là từ năm 2013 sau khi có hiến pháp mới, hệ thống pháp luật hầu như hoàn thiện. Thể chế hoàn thiện giúp vận hành nền kinh tế tốt hơn.
Quốc hội chốt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 khoảng 6,5%, ông đánh giá như thế nào về khả năng cán đích chỉ tiêu này?
Quốc hội chốt mục tiêu tăng trưởng năm 2023 là 6,5%, thấp hơn mức đạt được năm 2022. Đây là điều dễ hiểu. Năm 2022 tăng trưởng đạt khoảng 8% trên nền năm 2021 chỉ tăng 2,5%, còn năm 2023 tăng 6,5% trên nền hơn 8% của 2022, như vậy tính theo con số tuyệt đối là lớn trong tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng chậm kéo dài, ít nhất tới hết quý 2/2023.
Tôi tin Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra trong năm 2023. Như đề cập ở trên, một số ngành công nghiệp gặp khó nhưng không phải tất cả. Hiện nay, một số doanh nghiệp rời khỏi thị trường nhưng doanh nghiệp mới thành lập cũng nhiều. Dòng vốn FDI giải ngân 20 tỷ USD đã có tác động lan tỏa lớn. Chương trình đầu tư công nếu triển khai hết sẽ kích mạnh thị trường nội địa. Kinh tế nội địa với những động lực được triển khai thì chúng ta không khó đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5%.
Tuy nhiên, vấn đề của năm 2023 không phải là tăng trưởng 6,5% hay 7% mà chúng ta phải giải quyết được sự ổn định thị trường tài chính, bất động sản tạo niềm tin cho người dân; gỡ các điểm nghẽn thể chế, trong đó có đầu tư công; chất lượng nền kinh tế có chuyển đổi số mạnh được hay không.
Như vậy, những vấn đề trên rất quan trọng để đánh giá sự tăng trưởng còn GDP tăng trưởng bao nhiêu chưa nói được hết về nền kinh tế. Theo tôi, vấn đề của Việt Nam là chất lượng.
Ông vừa đề cập ổn định thị trường tài chính, bất động sản, vậy ông nhìn nhận ra sao về khó khăn, thử thách với hai lĩnh vực này?
Với thị trường tài chính, vấn đề lớn nhất hiện nay là mô hình giám sát thị trường. Không thể chia cắt giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, phải có mô hình giám sát hiệu quả.
Với Nghị định 65 về trái phiếu doanh nghiệp, quan điểm của tôi là sau sự cố Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát… chúng ta đã vội vàng, đánh không trúng chỗ. Tại sao các doanh nghiệp phát hành trái phiếu lợi dụng được? Tôi cho rằng vì thiếu công cụ giám sát. Hệ sinh thái có công ty chứng khoán, ngân hàng làm đại lý tạo điểm nhầm lẫn cho người dân, đánh vào tâm lý hưởng lãi suất cao. Người dân dễ hiểu lầm đến ngân hàng mua trái phiếu là yên tâm được bảo lãnh, đáng lý phải chấn chỉnh chỗ này thì chúng ta lại đi chấn chỉnh chỗ khác. Những điều này, tôi đánh giá là do Nhà nước quản lý yếu kém, cần chấn chỉnh.
Với bất động sản, ở Việt Nam kinh doanh bất động sản phần lớn là cá nhân, người người nhà nhà làm bất động sản mà thiếu các định chế, các quỹ đầu tư tương hỗ có bộ phận chuyên môn phân tích, người không chuyên môn có thể bỏ tiền vào quỹ để đầu tư. Những định chế như vậy chưa phát triển, chỉ thấy người người đi mua đất, mua nhà để đầu cơ chờ lên cao bán kiếm lời.
Tôi cho rằng, về lâu dài phải đánh thuế căn nhà và đất thứ hai nhằm giảm yếu tố đầu cơ, điều tiết thu nhập. Tiền phải đầu tư lại cho người dân nâng cao phúc lợi nhà ở xã hội, chương trình môi trường. Ở các nước, thuế bất động sản là thuế địa phương, được dùng nâng phúc lợi người dân. Ví dụ tại TP.HCM, tương lai TP. Thủ Đức có thuế nhà đất lớn, người dân ở đây sẽ được hưởng phúc lợi cao hơn người dân quận, huyện khác. Thu thuế lớn, tiến tới tạo phúc lợi công cộng miễn phí, chứ không phải thu ở Thủ Đức nhưng lại dùng cho nơi khác. Nếu làm được, tôi tin rằng người dân sẽ đồng tình việc đánh thuế như vậy.
Với chương trình nhà ở xã hội chưa được thành công vì giá đất lên cao. Doanh nghiệp sẽ không thấy hấp dẫn với giá đất cao, họ chỉ xây chung cư cao cấp mới gánh được tiền đất…
Chúng ta phải mạnh dạn chấn chỉnh thị trường bất động sản. Thứ nhất, đầu cơ nâng giá đất đang là tai họa nhất của nền kinh tế. Giai đoạn vừa qua, doanh nghiệp bất động sản đưa ra các sản phẩm đầu cơ, ngân hàng lại cho vay để đầu cơ, điều này phải chấn chỉnh, làm sao giảm yếu tố đầu cơ. Nguồn vốn, nhất là dòng tiền tín dụng mà đưa vào đầu cơ là không ổn. Siết cái này sẽ làm giảm yếu tố đầu cơ.
Thứ hai phải có chính sách rõ ràng về bơm dòng tiền vào những sản phẩm có thể đưa vào sử dụng chứ không đưa vào xây dựng bỏ hoang. Hiện bao nhiêu dự án phát triển bán nền để bỏ hoang là phải chấn chỉnh và phải kiểm soát dòng tín dụng.
Tiền của khách hàng đưa vào một dự án bất động sản thì doanh nghiệp phải dùng triển khai dự án đó mà không được dùng cho việc khác. Khách hàng bỏ tiền vào làm chung cư, doanh nghiệp không làm chung cư mà sử dụng đi thâu tóm quỹ đất hoặc muốn làm gì thì làm… điều này ở các nước khác bị cấm hoàn toàn.
Cuối cùng là hệ thống pháp luật, phải sửa đồng bộ các Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở…
Xin cảm ơn ông đã chia sẻ!