Cảnh sát cơ động đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
Cụ thể, với 454/474 đại biểu Quốc hội tán thành (chiếm 91,16%), Quốc hội đã chính thức thông qua dự án Luật Cảnh sát cơ động.
Ngày 26/5 vừa qua, Quốc hội đã nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và sau đó tiến hành thảo luận ở hội trường về dự án Luật Cảnh sát cơ động. Trong đó, đã có 21 đại biểu Quốc hội đăng ký phát biểu tại hội trường và 01 ý kiến tranh luận.
Sau khi tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Cảnh sát cơ động gồm 5 chương, 33 điều, trong đó quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ, tổ chức và hoạt động của Cảnh sát cơ động; điều kiện bảo đảm và chế độ, chính sách đối với Cảnh sát cơ động như: Kinh phí, cơ sở vật chất, ưu tiên đầu tư trang bị hiện đại, nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho các hoạt động của Cảnh sát cơ động; quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với Cảnh sát cơ động.
Nguyên tắc hoạt động của Cảnh sát cơ động được khẳng định trong dự luật gồm: Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý nhà nước của Chính phủ và sự chỉ đạo, chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Kết hợp chặt chẽ biện pháp vũ trang với các biện pháp công tác khác của lực lượng CAND trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Bảo đảm sự chỉ huy, chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Cảnh sát cơ động là lực lượng “nòng cốt thực hiện biện pháp vũ trang”
Trước khi biểu quyết thông qua dự án Luật Cảnh sát cơ động, trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Cảnh sát cơ động trước đó, Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường nhấn mạnh, dự thảo Luật quy định vị trí của cảnh sát cơ động là lực lượng vũ trang thuộc Công an nhân dân, với chức năng là lực lượng “nòng cốt thực hiện biện pháp vũ trang” bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và được quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động trong dự thảo Luật. Đây chính là đặc thù và sự khác biệt của cảnh sát cơ động so với các lực lượng khác trong Công an nhân dân.
Phạm vi, địa bàn hoạt động của cảnh sát cơ động trước hết phải theo quy định của Luật Công an nhân dân và được cụ thể hóa trong dự thảo Luật, đồng thời được phân định bởi các quy định của pháp luật có liên quan (như Luật Biên phòng Việt Nam, Luật Cảnh sát biển Việt Nam).
Đối với các nhiệm vụ, quyền hạn do Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển chủ trì, cảnh sát cơ động sẽ chỉ phối hợp thực hiện khi được yêu cầu tham gia giải quyết vụ việc.
Trước ý kiến đề nghị bổ sung quy định cảnh sát cơ động được vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân để thực hiện một số nhiệm vụ khác và ngăn chặn, trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật khác, sau khi cân nhắc, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho bổ sung cụm từ “để chống khủng bố, giải cứu con tin” để rõ ràng hơn về phạm vi và mục đích vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân và thống nhất với nội dung của điều luật.
Liên quan đề xuất bổ sung quyền nổ súng vào tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ, UBTVQH thấy rằng để thực hiện quyền “ngăn chặn, vô hiệu hóa tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ” quy định tại khoản 3 Điều 10 của dự thảo Luật, cảnh sát cơ động có thể sử dụng các biện pháp, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại (phá sóng, chế áp điện tử…) mà không nhất thiết phải sử dụng vũ khí, vật liệu nổ. Quy định tại khoản này không bao gồm việc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ.
Tổng Thư ký Quốc hội cũng cho biết, một số ý kiến đề nghị quy định rõ trường hợp cấp bách được huy động người, phương tiện, thiết bị dân sự; có ý kiến đề nghị không quy định quyền huy động khi thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát đảm bảo an ninh, trật tự vì đây là hoạt động thường xuyên, không mang tính cấp bách.
UBTVQH cho rằng, thực tế khi triển khai các phương án, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ, cảnh sát cơ động luôn bố trí lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu thực tế. Tuy nhiên, trong một số trường hợp có thể phát sinh những tình huống ngoài dự kiến mà cấp bách, cần thiết phải huy động người, phương tiện, thiết bị dân sự thì CSCĐ mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thực tế có nhiều tình huống phức tạp, khó lường, ngoài dự báo. Do đó, nếu quy định cụ thể “trường hợp cấp bách” trong dự thảo Luật sẽ rất khó bao quát hết các tình huống có thể xảy ra trong thực tiễn. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định về quyền huy động trong trường hợp cấp bách cũng không giải thích hoặc quy định cụ thể.
Đối với nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát thông thường thì cảnh sát cơ động không có quyền huy động người, phương tiện, thiết bị dân sự. Chỉ trong trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm ngay tức khắc đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội mà cảnh sát cơ động không đủ điều kiện ngăn chặn, xử lý, nếu không huy động thì nguy cơ xảy ra hậu quả rất nghiêm trọng cho an ninh quốc gia, cho xã hội. Quyền huy động của cảnh sát cơ động chỉ được thực hiện trong những trường hợp này.