Ngành mía đường cần nâng cao lợi thế cạnh tranh

(CL&CS) - Ngành mía đường muốn tồn tại và phát triển trong tương lai, tránh nguy cơ phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu thì cần phải có những thay đổi vĩ mô, nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh.

Ngành mía đường trong nước đang có xu hướng co giảm. (Ảnh: minh họa)

Vấn nạn đường nhập lậu vẫn còn

Theo báo cáo "Chuỗi cung ứng ngành mía đường Việt Nam" do nhóm tác giả của Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA), Forest Trends và Viện Nghiên cứu Mía đường (SRI) công bố mới đây, giai đoạn 2017-2020, Việt Nam phải nhập khẩu 1,2-1,8 triệu tấn đường/năm, trong khi sản xuất trong nước giảm từ 1,24 triệu tấn/năm còn 770.000 tấn/năm. Đáng lưu ý, có 9/38 nhà máy đường phải đóng cửa, diện tích trồng mía giảm đến 45%.

Nhóm tác giả còn chỉ rõ đường nhập khẩu hiện nay chủ yếu có nguồn gốc Thái Lan, bao gồm cả đường nhập lậu với tỉ lệ 10-70% tùy năm. Đường Thái ồ ạt tràn vào thị trường Việt Nam trong bối cảnh chi phí sản xuất, chế biến và quản lý sản xuất của ngành mía đường Việt Nam cao hơn Thái Lan lần lượt là 30%, 183,4% và 52,9%.

Tại hội thảo Hướng tới sự phát triển bền vững ngành mía đường Việt Nam được tổ chức mới đây, ông Cao Anh Đương, quyền Chủ tịch VSSA nhận định, có nhiều yếu tố khiến cho ngành mía đường suy giảm, trong đó có yếu tố quan trọng nhất là năng lực cạnh tranh của ngành còn thấp, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế khi các hàng rào về thuế quan được loại bỏ, cho phép đường nhập khẩu với giá cạnh tranh đặc biệt từ Thái Lan được nhập vào Việt Nam.

Hiện Việt Nam đang áp dụng mức thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với đường nhập từ Thái Lan (47,64%), nhưng mức thuế này có thể sẽ tạo động lực cho việc mở rộng nhập lậu - vấn nạn đã hình thành từ lâu nhưng đến nay chưa được giải quyết triệt để và trong tương lai xa không khuyến khích được ngành mía đường có những thay đổi đột phá nằm nâng cao lợi thế cạnh tranh.

Theo VSSA, mặc dù Việt Nam đứng thứ tư tại Đông Nam Á (sau Thái Lan, Indonesia, Philippines) và thứ 15 trên thế giới về diện tích trồng mía, song ngành mía đường Việt Nam đang có xu hướng co giảm.

Diện tích trồng mía giảm từ hơn 274 nghìn ha trong vụ 2016-2017 xuống còn gần 151 nghìn ha hiện nay, tương đương mức giảm trên 45%. Năng suất giảm từ 64,8 tấn/ha xuống còn 61,5 tấn/ha trong cùng giai đoạn (5,1%). Số hộ tham gia trồng mía giảm từ gần 219,5 nghìn hộ xuống ở mức khoảng 126.000 hộ hiện nay.

Bên cạnh đó, hiệu quả kinh tế của cây mía với các cây trồng khác trên cùng diện tích đất có thể thấy mức độ chênh lệch rất lớn. Chẳng hạn, niên vụ 2019-2020, tại miền Trung - Tây Nguyên, cây sắn (mì), bắp, keo lai có hiệu quả kinh tế cao hơn cây mía khoảng 5-8 lần; tại khu vực Đông Nam Bộ, cây sắn và bắp đạt hiệu quả kinh tế cao hơn cây mía 10-30 lần; còn tại vùng Tây Nam Bộ, cây lúa cho hiệu quả cao hơn cây mía khoảng 30-44 lần.

Số liệu của VSSA cho thấy, người trồng mía, chủ yếu là các hộ gia đình (80,6%), đóng vai trò chủ đạo ở đầu chuỗi cung, cung phần lớn lượng mía nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Tuy nhiên, vai trò, vị thế và đặc biệt là lợi ích của hộ thu được từ việc tham gia chuỗi là nhỏ nhất so với các nhóm khác tham gia chuỗi (nhóm hộ trồng mía chỉ nhận được dưới 11% trong tổng lợi nhuận từ chuỗi, tiếp đến là các nhà máy đường, trong khi gần 44% lợi nhuận rơi vào khâu phân phối).

Không những thế, khâu thu mua mía nguyên liệu đang có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà máy, thường là có sự cấu kết với các thương lái mía. Kết quả là các hợp đồng liên kết giữa hộ và các nhà máy bị phá vỡ, nguồn nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy không đảm bảo, tạo ra sự mất lòng tin giữa các bên tham gia liên kết...

Mía đường cần nâng cao sức cạnh tranh 

Ông Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAA), cho hay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định ngành đường có vị trí quan trọng nên không thể dựa vào nhập khẩu hoàn toàn. Từ đó, việc tự chủ sản xuất đường, nâng cao năng lực để cạnh tranh với đường Thái Lan cũng rất quan trọng.

Ông Anh nhận định Việt Nam có điều kiện sinh thái gần giống Thái Lan, sản phẩm gạo Việt đã vượt lên thì ngành đường cũng có cơ hội cải thiện nếu có thể tổ chức lại sản xuất. Về phía nông dân, để có tiếng nói, cần phải tham gia hợp tác xã và tận dụng tốt các chính sách của hợp tác xã.

TS. Nguyễn Vinh Quang dự báo: “Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng như Malaysia và Đài Loan, phụ thuộc hoàn toàn vào đường nhập khẩu. Nếu Việt Nam cần ngành mía đường tồn tại và phát triển trong tương lai, ngành cần phải có những thay đổi vĩ mô, nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh”.

Trước những thách thức này, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra nhiều đề xuất để ngành đường hướng tới sự phát triển bền vững như: Chính phủ cần ban hành chính sách đặc thù về liên kết chuỗi trong ngành mía với sự chia sẻ lợi ích giữa các bên tham gia theo tỉ lệ người trồng mía hưởng 60-70% lợi ích, còn lại (30-40%) là của các nhà máy chế biến.

Đồng thời, kiểm soát tình trạng đường nhập lậu bởi nguồn cung này có quy mô lớn. Ngoài ra, cũng cần hình thành tổ chức đại diện cho các hộ trồng mía bởi họ giữ vai trò sống còn với ngành. Nâng cao sức cạnh tranh trong khâu sản xuất.

Bên cạnh đó, cũng cần nâng cao sức cạnh tranh trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Cần có các cơ chế hiệu quả nhằm giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà máy và trong hệ thống thương lái như hiện nay.

TIN LIÊN QUAN